Các nước phát triển công nghiệp hỗ trợ như thế nào?

Từ câu chuyện về ngành công nghiệp ô tô của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, có thể thấy vai trò của chiến lược đúng đắn và chuỗi cung ứng hoàn thiện quan trọng

Hàn Quốc: chuỗi cung ứng liên kết chặt chẽ

Giống như Việt Nam, Hàn Quốc nằm giữa Nhật Bản - đất nước đại diện cho công nghệ cao, giá thành cao và Trung Quốc - quốc gia đang phát triển, chi phí thấp. Công nghiệp ô tô Hàn Quốc đã lựa chọn vị trí cân bằng giữa chi phí và chất lượng.

Tại Hàn Quốc, các nhà sản xuất ô tô liên kết chặt chẽ với các nhà cung cấp của mình. Trên cơ sở những hợp đồng dài hạn, các nhà cung cấp linh kiện sẽ tham gia vào toàn bộ quá trình phát triển một chiếc xe ô tô, chia sẻ những thông tin quan trọng như mục tiêu chi phí, lợi nhuận dự kiến... Các nhà sản xuất ô tô Hàn Quốc đi đâu cũng kéo các nhà cung cấp, bất kể trong hay ngoài nước. Các nhà máy sản xuất linh kiện, phụ tùng sẽ nằm cạnh các nhà máy sản xuất, lắp ráp. Như thế, doanh nghiệp cắt giảm được những chi phí không cần thiết và rút ngắn thời gian sản xuất đáng kể.

Những năm 1960, trong giai đoạn đầu phát triển ngành ô tô, Chính phủ Hàn Quốc chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào ngành khi hình thành một liên doanh với doanh nghiệp trong nước. Chiến lược này giúp các doanh nghiệp sản xuất ô tô Hàn Quốc như Huyndai, Kia, Deawoo… nhanh chóng trưởng thành, tiếp thu những công nghệ hiện đại của công nghiệp ô tô Nhật Bản, châu Âu hay Mỹ.

Trong suốt quá trình hình thành, phát triển và trưởng thành của công nghiệp ô tô Hàn Quốc, Chính phủ nước này luôn đồng hành cùng với doanh nghiệp, đưa ra những hỗ trợ về chính sách, thậm chí là tài chính khi cần thiết, nhưng cũng chấp nhận những quy luật tất yếu của thị trường cạnh tranh khi chấp nhận những vụ thâu tóm, phá sản của các doanh nghiệp trong ngành.

Malaysia ưu đãi thuế

Ở Malaysia, Chính phủ đã thực hiện nhiều chương trình, chính sách khuyến khích phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT). Cụ thể là ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản xuất máy móc và linh kiện; sản xuất các thiết bị giao thông và linh kiện phụ tùng; các ngành CNHT; sản xuất các thiết bị và linh kiện điện, điện tử; sản xuất các sản phẩm nhựa.

Đáng chú ý hơn cả ở Malaysia là xây dựng các chương trình phát triển các ngành quy mô nhỏ và vừa như chương trình hỗ trợ phát triển các nhà cung cấp linh kiện. Mục tiêu chính của chương trình này là tạo ra một thị trường công nghiệp mà các công ty công nghiệp quy mô nhỏ và vừa của Malaysia có thể trở thành những nhà sản xuất và cung cấp đáng tin cậy các sản phẩm đầu vào công nghiệp như máy móc, thiết bị cho các ngành công nghiệp lớn. Chính phủ Malaysia còn đặt mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu các nhà cung cấp linh phụ kiện, các công ty đa quốc gia,… có nhu cầu về sản phẩm CNHT nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu trên máy tính nhằm giúp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tiềm năng có thể tiếp cận các công ty lớn để cung cấp các sản phẩm đầu tư vào công nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước tham gia vào các ngành CNHT hiện đại, cạnh tranh, năng động trong các lĩnh vực sau: ôtô, xe máy; các ngành công nghiệp cao su; điện, điện tử; nhựa; các ngành sản xuất đồ gỗ; máy móc cơ khí; dệt may.

Ngoài ra, Malaysia liên tục tổ chức Hội chợ các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng và các hội chợ công nghiệp; Tiến hành nghiên cứu sản phẩm và phân đoạn thị trường cho các sản phẩm linh kiện phụ tùng theo từng lĩnh vực cụ thể. Thông qua Tổng công ty phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Malaysia thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ khác như: Chương trình liên kết hỗ trợ công nghiệp; Chương trình phát triển kỹ thuật; Chương trình hỗ trợ kỹ thuật; Chương trình nâng cao tay nghề; Chương trình phát triển xuất khẩu; và Chương trình phát triển cơ sở hạ tầng.

Thái Lan hỗ trợ tối đa nguồn vốn

Một nước láng giềng nữa rất đáng để Việt Nam học hỏi nữa là Thái Lan.

Trong giai đoạn đầu phát triển các ngành CNHT, Thái Lan chú trọng những chính sách khuyến khích và bảo vệ thị trường nội địa như chính sách nội địa hóa, giảm thuế nhằm phát triển nhanh các ngành sản xuất, từ đó làm tăng nhu cầu đối với các ngành CNHT. Khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị trong một thời gian nhất định đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT.

Thái Lan cũng tăng cường chính sách xúc tiến đầu tư vào ngành CNHT. Những ngành khuyến khích đầu tư được miễn giảm thuế môn bài trong một thời gian nhất định, miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc và cho phép cộng một phần tiền lỗ vào các chi phí đầu tư. Ba ngành trọng điểm để tập trung phát triển là sản xuất linh kiện vi điện tử, thiết kế điện tử và sản xuất phần mềm. Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản xuất các mặt hàng này được hưởng nhiều ưu đãi, thậm chí còn được hưởng chế độ ưu đãi khi bán hàng trong nước.

Tiếp theo là tăng cường sự liên kết các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật Bản, với hệ thống mạng lưới các nhà cung cấp trong nước. Có thể thấy, các doanh nghiệp FDI có vai trò rất lớn trong việc phát triển ngành CNHT của Thái Lan thông qua việc chuyển giao công nghệ cho các công ty CNHT trong nước (hỗ trợ liên kết kỹ thuật). Ở Thái Lan đã xuất hiện mạng lưới cung cấp linh kiện phụ tùng cho các doanh nghiệp đầu tư FDI có tính ổn định, lâu dài và có hiệu quả cao. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy ngành CNHT Thái Lan phát triển nhanh chóng và trở thành mũi đột phá chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế của Thái Lan trong những thập niên vừa qua.

Ngoài ra, việc thành lập bộ phận phát triển liên kết công nghiệp năm 1992 trực thuộc Ban Đầu tư và thành lập các viện nghiên cứu độc lập nhằm tăng năng lực nghiên cứu, chế tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) như Viện Máy móc tự động Thái Lan (TAI), Viện Điện và Điện tử (EEI), Viện Thực phẩm, Viện Dệt cũng là những bước đi đúng đắn để nhiều quốc gia học tập.

Kinh nghiệm Thái Lan và Malaysia đã chỉ ra rằng, chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp CNHT không chỉ về thuế, mà còn về tín dụng, tài chính để hỗ trợ tối đa trong giai đoạn đầu có đủ nguồn vốn đầu tư đổi mới hoặc trang bị mới công nghệ hiện đại, bảo đảm yêu cầu sản xuất cả số lượng và chất lượng sản phẩm khi liên kết với doanh nghiệp FDI về CNHT.