Sáng 26/8/2023, tại Hà Nội, Tạp chí Năng lượng Sạch Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy tiến trình Phát triển Năng lượng xanh, sạch và bền vững tại Việt Nam".
Diễn đàn có sự tham gia từ đại diện các đơn vị thuộc Bộ Công Thương: Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo; các chuyên gia và đại diện Hiệp hội, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng, dầu khí, điện tái tạo… cùng thảo luận, chia sẻ, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến năng lượng xanh, sạch, năng lượng tái tạo để từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị mang tính đột phá nhằm thúc đẩy nhanh và mạnh mẽ hơn nữa tiến trình phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững tại Việt Nam.
Theo TS. Mai Duy Thiện - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Sạch Việt Nam, việc phát triển xanh, chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược mà Việt Nam không thể đứng ngoài, cũng là một cơ hội để phát triển, tái cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xanh, sạch và bền vững.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững, thời gian qua đã có nhiều chủ trương, chính sách, định hướng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển như: Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; và đặc biệt ngày 15/05/2023 Thủ tướng Chính phủ đã Quyết định số 500/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, gọi tắt là Quy hoạch điện VIII.
Góp phần cụ thể hóa các chủ trương này, Diễn đàn “Thúc đẩy tiến trình Phát triển Năng lượng xanh, sạch và bền vững” là hoạt động cần thiết và có ý nghĩa với các tham vấn từ nhiều chuyên gia, các nhà khoa học và kinh nghiệm của các doanh nghiệp đang tham gia vào quá trình “xanh hóa”.
Định hướng chuyển đổi cơ cấu nguồn điện mạnh mẽ
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam là một nền kinh tế năng động, với nhu cầu sử dụng năng lượng, đặc biệt là điện năng ngày càng tăng cao. Giai đoạn 2011-2020, điện thương phẩm của Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân là 9,6 %/năm. Dự kiến giai đoạn 2021-2030, mức tăng trưởng điện thương phẩm bình quân sẽ đạt 8,52 % đến 9,36 %.
Xu thế phát triển hiện nay của các nền kinh tế trên thế giới là thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, sạch, giảm phát thải nhằm hướng đến mục tiêu trung hòa carbon. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Hiện nay đã có nhiều cơ chế chính sách nhằm chuyển dịch năng lượng bền vững phù hợp với định hướng chiến lược của Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị và các cam kết của Chính phủ về giảm phát thải ròng bằng 0 tại COP26. Tuy nhiên trên thực tế, thực hiện việc chuyển đổi năng lượng, trong đó có chuyển đổi cơ cấu nguồn điện tại Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu trên, vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt là kinh nghiệm trong hoạch định chính sách, đầu tư, xây dựng và quản lý vận hành và nhiều vấn đề khác.
Ông Hùng cho hay, cam kết của Việt Nam tại COP26 được thể hiện thông qua Quy hoạch điện VIII, việc điều chỉnh lại cơ cấu nguồn điện theo từng giai đoạn tới năm 2045. Theo đó, Chương trình nguồn điện tập trung đẩy mạnh các nguồn năng lượng tái tạo so với trước đây (điện gió trên bờ tăng từ 16.000 MW (11%) vào năm 2030 tới 56.000 MW (14,4%) vào năm 2045; điện gió ngoài khơi tăng từ 7.000 MW (4,8%) vào năm 2030 lên tới 64.500 MW (16,6%) vào năm 2045; điện mặt trời quy mô lớn tăng từ khoảng 8.700 MW (6%) vào năm 2030 lên tới 76.000 MW (19,6%) vào năm 2045). Tỷ trọng điện năng của các nguồn năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) trong tổng điện năng sản xuất đạt 33,4% năm 2030 và 54,3% năm 2045, giúp tăng tính chủ động trong việc cung cấp điện, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu.
Cam kết tại COP26 cũng được thể hiện thông qua việc điều chỉnh lại cơ cấu nguồn điện theo từng giai đoạn tới năm 2050. Không xây dựng mới nhà máy nhiệt điện than sau năm 2030. Các nhà máy nhiệt điện than đã hết đời sống kinh tế và công nghệ cũ sẽ dừng hoạt động (dự kiến sau 40 năm vận hành), định hướng chuyển dần sang sử dụng nhiên liệu sinh khối/amoniac sau 20 năm vận hành. Đến năm 2050, dừng sử dụng than cho phát điện.
Quy hoạch điện VIII xác định, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 121.757-145.989 MW (không bao gồm điện mặt trời mái nhà, nguồn cấp phụ tải riêng và đồng phát), trong đó: thủy điện 27.353-28.946 MW (tỷ lệ 19,8-22,5%); nhiệt điện than 30.127-36.327 MW (20,6-29,8%); nhiệt điện khí trong nước và LNG 30.330-39.430 MW (24,9-27%); năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 21.871-39.486 MW (18-27%); nhập khẩu điện 4.076-5.000 MW (3,3-3,4%).
Các nhà máy nhiệt điện than dự kiến đốt kèm nhiên liệu sinh khối hoặc amoniac sau 20 năm vận hành với tỷ lệ đốt kèm bắt đầu từ 20%, tăng dần dần lên 100%. Định hướng tới năm 2050 sẽ không còn nhà máy nhiệt điện sử dụng than trong hệ thống điện.
Các nhà máy điện khí dự kiến đốt kèm hydro từ sau năm 2030, bắt đầu từ tỷ lệ 20%, tăng dần dần lên 100%. Trong tương lai, nếu công nghệ được hoàn thiện, giá thành hydro giảm thì sẽ xây dựng các nhà máy điện thế hệ mới sử dụng hoàn toàn hydro. Định hướng đến năm 2050, phần lớn các nhà máy nhiệt điện khí sẽ chuyển sang sử dụng hydro.
Theo Quy hoạch điện VIII, khối lượng hydro cần thiết để thay thế nguồn LNG nhập khẩu đến năm 2035 khoảng 0,7-1,4 triệu tấn, năm 2045 khoảng 9,5-11,3 triệu tấn, năm 2050 khoảng 16-17,4 triệu tấn. Ước tính sơ bộ cho thấy tiềm năng năng lượng tái tạo trong nước đảm bảo sản xuất đủ hydro xanh cho sản xuất điện.
“Với chương trình phát triển nguồn như vậy, phát thải khí CO2 đạt đỉnh 250 triệu tấn vào năm 2035, sau đó giảm dần xuống 175 triệu tấn vào năm 2045 và ước đạt 42 triệu tấn vào năm 2050. Việc phát thải cơ bản đáp ứng cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26”, ông Bùi Quốc Hùng khẳng định.
Ngoài ra, Quy hoạch điện VIII xác định các dự án điện gió, điện mặt trời phục vụ sản xuất hydro, không bán điện lên lưới điện quốc gia thuộc nhóm ưu tiên phát triển.
Với chương trình phát triển nguồn như vậy, phát thải khí CO2 đạt đỉnh 239 triệu tấn năm 2035, 115 triệu tấn năm 2045 và ước đạt 30 triệu tấn năm 2050, đảm bảo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.
Nhận diện rõ thách thức
Nhờ các chính sách khuyến khích, đồng bộ với các mục tiêu phát triển đã đặt ra, năng lượng tái tạo ở Việt Nam đã có sự phát triển nhanh. Tính đến cuối năm 2022, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt khoảng 79.350MW, trong đó tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) là 20.165MW và chiếm tỷ trọng 25,4%.
Việc phát triển nhanh các nguồn điện năng lượng tái tạo đã bổ sung công suất và sản lượng cho hệ thống điện quốc gia, khai thác tiềm năng, lợi thế của Việt Nam, giảm phát thải khí nhà kính, huy động được vốn đầu tư xã hội, giảm lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu như than, dầu, khí có nhiều biến động mạnh trong những năm qua.
Bên cạnh các thuận lợi về vị trí địa lý, tiềm năng năng lượng gió, mặt trời của Việt Nam và xu hướng giá điện gió, điện mặt trời trên thế giới đang giảm, thì nhiều thách thức đang đặt ra cho việc chuyển dịch cơ cấu nguồn điện, theo ông Bùi Quốc Hùng.
Đầu tư các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất và sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống. Do vậy, thách thức lớn nhất đối với phát triển năng lượng tái tạo nằm ở vốn đầu tư và khả năng thu xếp vốn của chủ đầu tư, trong đó, rào cản tài chính là yếu tố cản trở việc thực hiện một dự án kinh tế do thiếu tiếp cận với nguồn tài chính phù hợp.
Thách thức về việc sử dụng đất, vốn đầu tư, đấu nối, giải tỏa công suất, cơ chế chính sách là những vấn đề đáng quan tâm trong quá trình định hướng, xây dựng chính sách phát triển nguồn điện tái tạo; cùng với việc chưa có những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió.
Năng lực và trình độ công nghệ trong nước còn hạn chế, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế thiết bị. Tỷ lệ nội địa hóa công nghệ ngành năng lượng thấp, thiếu cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy nội địa hóa công nghệ.
Đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cũng nhận định, việc phát triển điện năng lượng tái tạo thời gian qua cũng đã bộc lộ một số bất cập trong công tác quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và khai thác các dự án điện gió điện mặt trời; phát triển chưa đồng bộ với hệ thống truyền tải dẫn đến nghẽn mạch phải giảm phát.
Các chính sách, quy định khuyến khích phát triển được áp dụng trong thời gian qua chỉ được áp dụng trong thời gian nhất định để hỗ trợ, khuyến khích đầu tư vào điện gió, điện mặt trời. Hiện nay, giá điện gió, điện mặt trời trên thế giới có xu hướng ngày càng giảm, quy mô điện gió, điện mặt trời ngày càng mở rộng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu nguồn điện quốc gia, thị trường công nghệ, thiết bị điện gió, điện mặt trời đã trở nên phổ biến và cạnh tranh hơn. Các chính sách hỗ trợ nêu trên không còn phù hợp, nên sẽ không còn được duy trì tiếp.
Ngoài ra, mặc dù việc bổ sung quy hoạch nguồn điện được tính toán đồng bộ quy hoạch lưới, tuy nhiên, tiến độ triển khai nhiều công trình lưới điện đã có trong quy hoạch phát triển điện lực đã được phê duyệt còn chậm dẫn đến quá tải cục bộ tại một số khu vực.
Giải bài toán cơ chế, công nghệ và giá
Để giải quyết những thách thức này, ông Bùi Quốc Hùng đưa ra 8 giải pháp:
Thứ nhất, Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt, tuy nhiên Chính phủ cần sớm phê duyệt các Kế hoạch thực hiện các quy hoạch trên để làm cơ sở cho việc triển khai các dự án Năng lượng.
Thứ hai, Quy hoạch không gian biển cũng phải ban hành đồng bộ với các Quy hoạch trên.
Thứ ba, các Quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia cho năng lượng tái tạo cũng cần sớm ban hành để có cơ sở áp dụng, thực hiện. Đồng thời xem xét nghiên cứu xây dựng và trình Ban hành Luật năng lượng tái tạo.
Thứ tư, cần có các cơ chế về giá cho các loại hình năng lượng: than, khí LNG, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối,...
Thứ năm, cần nâng cao năng lực và trình độ công nghệ của ngành năng lượng; nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ năng lượng. Tiếp theo cần cải thiện hành lang pháp lý, đồng bộ các quy định và luật để thúc đẩy sử dụng hiệu quả năng lượng, phát triển thị trường năng lượng mới và năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, đẩy mạnh trình độ khoa học công nghệ để vận hành, làm chủ các công nghệ liên quan đến năng lượng sạch, ít phát thải…
Thứ sáu, cần có các tiêu chuẩn và chứng chỉ để đảm bảo rằng thiết bị được sản xuất hoặc mua sắm từ nước ngoài phù hợp với tiêu chuẩn hiện hành. Việc ban hành các tiêu chuẩn cần thiết nhằm đảm bảo rằng các doanh nghiệp đang vận hành nhà máy đã tuân thủ luật pháp hiện hành. Việc chưa có các tiêu chuẩn cần thiết cũng gây ra sự nhầm lẫn và các nhà sản xuất năng lượng tái tạo phải đối mặt với những khó khăn không cần thiết.
Thứ bảy, phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện; thực hiện đầu tư phát triển điện lực cân đối giữa các vùng, miền trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi vùng, miền; hạn chế tối đa việc xây dựng mới các đường dây truyền tải điện liên miền.
Thứ tám, tăng cường việc liên kết lưới điện với các nước trong khu vực nhằm hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo trong nước có hiệu quả.