Cơ giới hoá khai thác than cần một cơ chế đặc thù

Công tác cơ giới hoá (CGH) trong khai thác than là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhằm tăng năng suất lao động, nân

Theo thống kê, từ năm 2013 đến nay, toàn Tập đoàn TKV có 4 đơn vị thực hiện đưa các dự án CGHkhai thác vào hoạt động gồm: Hà Lầm, Dương Huy, Quang Hanh và Khe Chàm. Các loại hình công nghệ CGH khai thác được đưa vào áp dụng như: CGH đồng bộ, khấu hết chiều dày vỉa (Dương Huy, Quang Hanh); CGH đồng bộ, hạ trần thu hồi than nóc ở đuôi dàn, vận tải bằng máng cào sau (Hà Lầm, Khe Chàm)… Tỷ lệ sản lượng than khai thác bằng cơ giới hóa so với tổng sản lượng than khai thác hầm lò bằng các loại hình công nghệ khác đã tăng từ 3,2% năm 2013 lên đạt gần 10% vào năm 2016. Đây là nỗ lực lớn của TKV. Đặc biệt, thời gian gần đây, Công ty CP Than Hà Lầm đã đưa vào khai thác lò chợ cơ giới hoá đồng bộ có công suất 1,2 triệu tấn/năm.

Mặc dù công tác CGH khai thác đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng qua thống kê về sản lượng than khai thác bằng CGH hàng năm vẫn chưa cao và chưa đạt được kế hoạch đề ra. Chẳng hạn như năm 2013 đạt 73,8% kế hoạch; năm 2014 đạt 51,3%; năm 2015 đạt 61,4%. Tổng số có 11 dây chuyền CGH đã được đầu tư áp dụng trong Tập đoàn, tuy nhiên đến thời điểm hiện nay chỉ còn 6 dây chuyền hoạt động. Về đào lò, công tác đào lò cũng chưa theo kịp được tiến trình cơ giới hoá đồng bộ. Trong đổi mới công tác đào lò, các đơn vị đã áp dụng máy đào lò nhưng hiệu quả không cao. Trong công tác chống lò, các đơn vị đã áp dụng chống lò bằng vì neo và tiếp tục được nhân rộng trong toàn Tập đoàn, cũng như áp dụng đa dạng về loại hình công nghệ. Từ năm 2013 đến nay tất cả các đơn vị sản xuất hầm lò, xây dựng mỏ đã thực hiện việc chống lò bằng vì neo. Tuy nhiên, kết quả thực hiện chống lò bằng vì neo hàng năm còn ở mức thấp.

Trong khi đó, theo mục tiêu đặt ra, sản lượng cơ giới hoá khai thác than đồng bộ đến năm 2020 của toàn TKV sẽ chiếm trên 25% tổng sản lượng than khai thác hầm lò. Số lượng lò chợ CGH dự kiến được áp dụng cũng sẽ tăng từ 7 lò chợ năm 2016 lên 17 lò chợ vào năm 2020 thể hiện sự quyết tâm cao trong công tác cơ giới hoá khai thác than của Tập đoàn. TKV đề ra nhiệm vụ tập trung nghiên cứu, hoàn thiện áp dụng CGH cho các mỏ có trữ lượng công nghiệp lớn, ổn định, điều kiện địa chất phù hợp, sau đó sẽ mở rộng áp dụng trong TKV. Đối với các mỏ xây dựng mới (Núi Béo, Khe Chàm II-IV,...), xác định theo hướng áp dụng những công nghệ tiên tiến, ưu tiên CGH đồng bộ cho công suất lớn... Tiếp tục áp dụng chống lò bằng vì neo để giảm giá thành, nâng cao năng suất lao động, tốc độ đào lò, đưa công nghệ đào chống lò bằng vì neo thành công nghệ truyền thống tại các mỏ than hầm lò…

Để thực hiện mục tiêu trên, TKV phải vượt nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, theo các chuyên gia, khó khăn nhất trong công tác CGH khai thác than hầm lò là điều kiện địa chất tại không ít đơn vị phức tạp, khó áp dụng. Hầu như các đơn vị khai thác than vùng Quảng Ninh đều bị các vỉa than có lớp đá trụ mềm yếu, máy khấu và giàn chống thường bị sa lầy khi đưa vào hoạt động. Ngoài ra, thực trạng các vỉa than của những đơn vị áp dụng CGH cũng cho thấy, chiều dài khai thác theo phương không lớn, khiến phải chuyển diện khai thác nhiều lần trong năm làm ảnh hưởng đến công suất khai thác, công tác đào lò chuẩn bị diện cũng thường không theo kịp. Ðặc biệt, nhiều đơn vị bị ảnh hưởng do nước chảy vào lò chợ với lưu lượng lớn gây đình trệ sản xuất. Kế tiếp là nguồn thiết bị đồng bộ phục vụ quá trình CGH khai thác than hầm lò gặp khó khăn. Bởi lẽ, các thiết bị CGH chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài nên rất bị động. Việc chế tạo cơ khí trong nước chưa phát triển, trong khi đó các đơn vị cơ khí của TKV không đáp ứng được, làm khó khăn khi lựa chọn đồng bộ thiết bị v.v.

Từ những khó khăn, thách thức trên, vấn đề đặt ra với TKV là cần phải sớm đánh giá lại các tổ hợp, các dự án cơ giới hóa đã thực hiện, đặc biệt là đánh giá lại tình hình địa chất mỏ để có giải pháp đầu tư cơ giới hóa hiệu quả, phù hợp với điều kiện của từng mỏ. Thông qua đó, Tập đoàn xây dựng cơ chế thống nhất quản lý về công nghệ và cơ giới hóa từ Tập đoàn đến các đơn vị; xây dựng mối liên hệ, hỗ trợ giữa các đơn vị nghiên cứu, tư vấn đầu tư, cơ khí với các mỏ; xây dựng cơ chế chính sách hay đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển CGH, trong đó, cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ quản lý, vận hành, sửa chữa thiết bị cho công nhân, cán bộ.

Về phía các đơn vị phải chủ động đánh giá điều kiện khoáng sàng do mình quản lý, từ đó đề xuất các loại hình áp dụng CGH đào lò và khai thác của đơn vị mình. Các cơ quan tham mưu của TKV cần xác định rõ tầm quan trọng của khoa học công nghệ, tài liệu địa chất, từ đó, tham mưu cho lãnh đạo TKV trong việc quản lý khoa học công nghệ, quản lý tài nguyên hiệu quả. Song song với đó, TKV cần làm tốt công tác thăm dò đảm bảo cấp trữ lượng trong các tài liệu địa chất của các khu vực có khả năng áp dụng CGH đạt mức độ tin cậy và chắc chắn. Nghiên cứu đề xuất, triển khai áp dụng thử nghiệm một số mô hình CGH khai thác và đào lò tại các điều kiện địa chất kỹ thuật mỏ khác nhau để phát triển mở rộng ra các khu vực khác có điều kiện địa chất kỹ thuật mỏ tương tự v.v.

Đặc biệt, nên chăng TKV cần xây dựng và sớm ban hành một cơ chế đặc thù cho các đơn vị áp dụng CGH, hỗ trợ các đơn vị áp dụng thử nghiệm... để giải quyết những vướng mắc cho các đơn vị thực hiện cơ giới hoá được nhanh chóng và hiệu quả hơn.