Trong những năm vừa qua, hiện tượng gian lận thương mại thông qua ghi nhãn xuất xứ sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam (Made in Viet Nam) và sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam (Product of Viet Nam) ngày càng gia tăng. Có trường hợp hàng hóa được nhập khẩu từ nước ngoài hoặc đặt gia công tại nước ngoài nhưng lại gắn mác là hàng “Made in Viet Nam” để gian lận thương mại, đánh lừa người mua, người tiêu dùng. Việc gian lận ghi nhãn sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam không những gây hậu quả trực tiếp đến sản phẩm cụ thể, ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn có tác động không nhỏ đến ngành hàng trong nước, làm giảm uy tín và tính cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã thực hiện nghiên cứu Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam” ở quy mô cấp cơ quan quản lý nhà nước, nhằm mục đích làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng, áp dụng các chính sách về xác định và cách thể hiện hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Trong đó, qua tổng hợp lý thuyết, cơ sở lý luận về xuất xứ hàng hoá, phân tích thực trạng quy định và thực hiện các quy định về cách xác định và thể hiện hàng hoá sản xuất tại Việt Nam hiện nay, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm tạo nền tảng về lý luận và thực tiễn cho việc định hướng chính sách pháp luật quản lý về hàng hoá sản xuất tại Việt Nam trong tương lai.
Những kết quả chính mà nhóm nghiên cứu đã thực hiện như sau:
Thiếu hành lang pháp lý về xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam
Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ và Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09/12/2021 của Chính phủ sửa đổi Nghị định số 43/2017/NĐ-CP là các văn bản chính hướng dẫn về nhãn hàng hóa nói chung tại Việt Nam. Trong đó, có quy định về cách ghi xuất xứ hàng hoá trên nhãn hàng hoá. Cụ thể, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu tự xác định và ghi xuất xứ đối với hàng hóa của mình nhưng phải đảm bảo trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam hoặc các Hiệp định mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết.
Mặc dù quy định tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu tự xác định và ghi xuất xứ đối với hàng hoá của mình, nhưng hiện nay các quy định về xác định xuất xứ hàng hoá tại Việt Nam mới chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và nhằm mục đích chính là hưởng ưu đãi thuế quan theo khuôn khổ các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Các quy định về xuất xứ hàng hoá này cơ bản cũng sử dụng bộ tiêu chí về xuất xứ hàng hoá phổ biến như hàng hoá có xuất xứ thuần tuý, hàng hoá không có xuất xứ thuần tuý được xác định bằng các tiêu chí như chuyển đổi mã số hàng hoá, hàm lượng giá trị khu vực, công đoạn gia công chế biến cụ thể. Riêng đối với hàng hoá được sản xuất và lưu thông trong nước, hiện chưa có quy định hay văn bản hướng dẫn về bộ tiêu chí để xác định xuất xứ Việt Nam của hàng hoá lưu thông trong nước hay nhằm mục đích ghi nhãn hàng hoá sản xuất tại Việt Nam.
Lúng túng khi thực hiện xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam
Quy định về ghi nhãn hàng hóa tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP và Nghị định số 111/2021/NĐ-CP đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo người tiêu dùng và các doanh nghiệp, góp phần vào việc xây dựng và duy trì một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, bảo đảm các quyền cơ bản của người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc thiếu vắng các quy định về việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là "Sản phẩm của Việt Nam" hay "Sản xuất tại Việt Nam" khi lưu thông tại thị trường trong nước đã tạo ra những hệ lụy nhất định đối với hoạt động sản xuất, thương mại cũng như xã hội Việt Nam.
Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng dù chỉ trải qua các công đoạn gia công, lắp ráp, chế biến đơn giản tại Việt Nam nhưng cũng gắn nhãn "Sản xuất tại Việt Nam" khiến người tiêu dùng thắc mắc, thậm chí bức xúc nhưng các cơ quan chức năng lại không có căn cứ để phân xử. Hơn nữa, việc xác định xem hàng hóa có xuất xứ Việt Nam theo như doanh nghiệp tự xác định hay không cần phải có sự phối hợp của các bộ, ngành, tổ chức liên quan. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc xác định xuất xứ cũng chưa được xác định rõ ràng, do vậy gây khó khăn trong việc xác định xuất xứ hàng hóa lưu thông trong nước.
Có thể nhận thấy, việc thiếu quy định cụ thể để xác định và thể hiện hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gian lận xuất xứ và bất cập trong việc xác định xuất xứ như đã nêu trên. Nếu không được quy định, bổ sung kịp thời, việc thiếu vắng trong hệ thống pháp luật có thể gây ra những hệ lụy, hệ quả phức tạp, ảnh hưởng đến kinh tế cũng như đời sống xã hội của người dân.
Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu xác định và thể hiện hàng hoá sản xuất tại Việt Nam
Nhóm nghiên cứu thực hiện thu thập thông tin, dữ liệu từ 460 doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực hoạt động (trong đó chủ yếu là Dệt may, Thuỷ sản, Điện tử, Thực phẩm chế biến, Da giày và Sắt thép) và thu được một số kết quả.
Về tình hình thực hiện nói chung, mặc dù chưa có quy định hướng dẫn về việc xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam, đa số các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang thực hiện tự xác định hàng hoá có xuất xứ hay sản xuất tại Việt Nam để phục vụ việc ghi nhãn hàng hoá dựa trên cơ sở là các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về xuất xứ hàng hoá đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Doanh nghiệp đã có những kiến thức và hiểu biết nhất định về xuất xứ hàng hoá cũng như cách thức để xác định được xuất xứ hàng hoá, nhằm ghi nhãn xuất xứ Việt Nam cho hàng hoá. Doanh nghiệp đã có khả năng nắm rõ về nguồn nguyên liệu nhưng hầu như chưa có hệ thống phân loại nguồn nguyên liệu được sử dụng cho quá trình sản xuất. Tuy nhiên, quá trình sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, là thách thức lớn cho doanh nghiệp khi áp dụng các tiêu chí xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Về nhu cầu thực hiện việc xác định và ghi nhãn hàng hoá sản xuất tại Việt Nam của một số ngành hàng, Nhóm nghiên cứu tập trung thu thập thông tin và phân tích kết quả đối với 5 ngành hàng chính là Dệt may, Thuỷ sản, Điện tử, Thực phẩm chế biến và Sắt thép.
Theo đó, hầu hết doanh nghiệp của các ngành hàng này đều có nhu cầu xác định và ghi nhãn hàng hoá sản xuất tại Việt Nam. Trong đó, doanh nghiệp ngành thuỷ sản có nhu cầu cao nhất, doanh nghiệp ngành điện tử và sắt thép có nhu cầu ít nhất. Lý do chính mà các doanh nghiệp muốn ghi nhãn hàng hoá sản xuất tại Việt Nam là để tăng uy tín, độ tin cậy và thương hiệu cho hàng hoá.
Doanh nghiệp của tất cả các ngành hàng đều muốn thể hiện cụm từ hàng hoá sản xuất tại Việt Nam bằng tiếng Anh (Made in Vietnam) hơn là tiếng Việt. Doanh nghiệp của các ngành hàng muốn áp dụng hình thức song song trong việc xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam đó là hoặc có cơ quan đánh giá và cấp giấy chứng nhận, hoặc doanh nghiệp tự xác định theo nhu cầu. Trường hợp cơ quan chức năng ban hành quy định về xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam, các doanh nghiệp hầu hết mong muốn có thời gian từ 2 đến 6 tháng để chuẩn bị. Riêng ngành điện tử thì không thể thực hiện được ngay như một số doanh nghiệp các ngành khác và mong muốn có ít nhất 6 tháng chuẩn bị.
5 nguyên tắc cần xem xét trong việc xây dựng bộ tiêu chí
Bộ tiêu chí để xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam có thể được xây dựng dựa trên bộ tiêu chí xác định xuất xứ hàng hoá xuất khẩu không ưu đãi
Đề tài nghiên cứu đã xác định được 5 nguyên tắc cần xem xét trong việc xây dựng bộ tiêu chí để xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam.
Nguyên tắc thứ nhất, Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa nên được tự xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam và tự chịu trách nhiệm về việc xác định của mình theo quy định.
Nguyên tắc thứ hai, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam được xác định theo quy định tại không mặc nhiên được coi là hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ Việt Nam theo các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa. Việc xác định xuất xứ hàng hóa đối với hàng hóa xuất khẩu thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc quy định của nước nhập khẩu về xác định xuất xứ hàng hóa.
Nguyên tắc thứ ba, hàng hóa “sản xuất tại Việt Nam” được thể hiện hoặc ghi trên nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.
Nguyên tắc thứ tư, tổ chức, cá nhân thể hiện hoặc ghi hàng hóa sản xuất tại Việt Nam bằng tiếng Việt. Trường hợp thể hiện hoặc ghi thêm bằng tiếng nước ngoài, tổ chức, cá nhân phải sử dụng cụm từ bằng tiếng nước ngoài tương đương.
Nguyên tắc thứ năm, trường hợp không xác định được hàng hóa là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam theo quy định này thì ghi nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa và thể hiện bằng bằng các cụm từ như quy định tại Nghị định số 111/2021/NĐ-CP
Nghiên cứu cho thấy rằng việc xác định xuất xứ hàng hoá đối với hàng hoá lưu thông trong nước có thể được xây dựng dựa trên các tiêu chí tương tự như với việc xác định xuất xứ hàng hoá cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Trong các bộ tiêu chí xác định xuất xứ hàng hoá, bộ tiêu chí của xuất xứ hàng hoá không ưu đãi sẽ phù hợp hơn so với bộ tiêu chí của xuất xứ hàng hóa ưu đãi vì không có sự cộng gộp công đoạn sản xuất hay giá trị của nguyên liệu từ các nước thành viên cùng Hiệp định thương mại tự do. Do vậy, bộ tiêu chí xác định xuất xứ hàng hoá không ưu đãi sẽ giúp phản ánh đúng bản chất xuất xứ của hàng hoá được sản xuất tại Việt Nam hơn so với bộ tiêu chí xác định xuất xứ hàng hoá ưu đãi.
Bộ tiêu chí phổ biến dùng để xác định xuất xứ hàng hoá không ưu đãi nên được xem xét và cân nhắc sử dụng cho quy định về xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam bao gồm: tiêu chí xuất xứ thuần tuý, tiêu chí xuất xứ sản xuất toàn bộ từ nguyên liệu có xuất xứ, tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá, tiêu chí hàm lượng giá trị gia tăng và tiêu chí công đoạn gia công chế biến cụ thể.
Đề xuất, kiến nghị của nhóm nghiên cứu
Việc xây dựng và ban hành các quy định về bộ tiêu chí để xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam trong tương lai có thể có những tác động trực tiếp hoặc gián tiệp, tích cực và tiêu cực về mặt kinh tế, xã hội, thủ tục hành chính, hệ thống thống phát luật và về giới đối với ba đối tượng là cơ quan nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra tác động có thể có đối với các ngành hàng được nghiên cứu cụ thể bao gồm Dệt may, Thuỷ sản, Điện tử, Thực phẩm chế biến và Sắt thép như gia tăng chi phí ban đầu thực hiện để thay đổi nguồn cung nguyên liệu nhằm đáp ứng quy định nhưng tác động về lâu dài đó là gia tăng uy tín của thương hiệu trên thị trường Việt Nam cũng như là thị trường thế giới.
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp cho việc xây dựng và thực hiện quy định về cách xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam đối với cơ quan nhà nước, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp. Đối với đối tượng chịu tác động trực tiếp và lớn nhất là doanh nghiệp, nghiên cứu kiến nghị doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu, nắm bắt ngay từ khi cơ quan nhà nước chuẩn bị xây dựng các quy định để xác định hàng hoá sản xuất tại Việt Nam, các quy định về xuất xứ hàng hóa và ghi nhãn hàng hóa để tính toán, xác định hàng hóa của mình đã đáp ứng được các tiêu chí để được coi là hàng “Sản xuất tại Việt Nam” hay chưa, qua đó điều chỉnh chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp.