G.C. Ridland, nhà vật lý công tác tại Port Radium, là người đầu tiên sử dụng những thiết bị phát hiện viễn thám dò tìm từ xa để tìm kiếm khoáng sản phóng xạ trong năm 1943.
Ngày nay thăm dò các mỏ uranium là một quá trình phức hợp, bởi vì hầu hết các mỏ có qui mô kinh tế còn lại đều nằm ở trong những kiến tạo địa chất dưới sâu và yêu cầu phải có công nghệ hiện đại để phát hiện ra sự tồn tại của khoáng sản này ở dưới sâu. Áp dụng công nghệ trong khai thác uranium bao gồm phân tích địa hoá, nghiên cứu địa vật lý, chụp ảnh vệ tinh và các phần mềm máy tính chuyên dùng.
Trong tất cả các giai đoạn của quá trình thăm dò khoáng sản và địa hoá, các quyết định được đưa ra dựa trên những điều kiện địa điểm nơi thăm dò, phán xét, kinh nghiệm và những thông tin quan trọng. Có được nhanh chóng các số liệu phân tích thăm dò chính xác để đưa ra quyết định vận hành khai thác mỏ là một trong những khó khăn lớn nhất. Bất kỳ một cải thiện nào về chất lượng hoặc hiệu quả đối với số liệu phân tích để nhanh chóng phác hoạ ra các mỏ uranium và phân tích địa hoá về khối lượng và độ sâu của quặng để nhằm lập ra bản đồ mỏ và kiểm tra chất lượng quặng là công việc rất quan trọng cho vận hành khai thác mỏ.
Ngày nay, quang phổ tia gamma viễn thám đã trở thành một tiêu chuẩn chấp nhận kỹ thuật để tìm kiếm uranium cùng với việc áp dụng lập bản đồ địa chất, thăm dò khoáng sản và giám sát môi trường. Một mỏ uranium, được phát hiện bằng những kỹ thuật địa vật lý, được đánh giá và lấy mẫu để xác định số lượng khoáng vật uranium có thể khai thác với chi phí được xác định từ mỏ này.
Công nghệ truyền thống
Công việc tại phòng thí nghiệm và các phân tích hoá học vẫn luôn là công việc cơ bản để xác định tài nguyên và đặc biệt quan trọng đối với những mỏ uranium dạng đá sa thạch. Sử dụng nhật ký biểu đồ gamma lỗ sâu được cân chỉnh là một tiêu chuẩn trong công nghiệp và vẫn thường được áp dụng trong công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng. Một khía cạnh khác trong thăm dò uranium là sử dụng ngày càng tăng thiết bị tia x huỳnh quang di động (XRF)-thiết bị này được sử dụng để đọc số liệu tức thời trong khi dàn khoan vẫn làm việc.
Kinh nghiệm tại hiện trường
Thách thức lớn đối với công tác thăm dò uranium là thiết kế ra chương trình điều tra đủ mạnh, sử dụng thiết bị thích hợp xét về chiều sâu, hình học, khoảng cách lấy mẫu tối ưu để có được độ phân giải bản đồ chất lượng cao và hiệu quả về chi phí. Nhà địa vật lý luôn có trách nhiệm xác định những tính chất thuộc tính vật lý của một mục tiêu và đá gốc của mục tiêu này, và hướng điều tra để có được những thông số điều tra tối ưu nhất.
Công nghệ hệ thống ghi chép uranium Neutron Phân hạch Nhanh (PFN ) được sử dụng để phát hiện và phát triển hai trong số những mỏ uranium lớn nhất Australia, mỏ Beverley và mỏ Four Mile ở Nam Australia. Công nghệ này vốn được phát triển ra ở Mỹ và được cải tiến nhiều, nhất là cho áp dụng ghi chép kết quả ở những lỗ khoan tại hiện trường. Dụng cụ ghi chép lỗ khoan PFN này là rất đặc biệt và duy nhất, dụng cụ đo trực tiếp hàm lượng uranium trong các lỗ khoan, khắc phục được vấn đề mất cân bằng, bởi vì mất cân bằng hạn chế việc diễn giải hàm lượng uranium như xẩy ra đối với sử dụng quang phổ tia gamma viễn thám. Dụng cụ PFN được sử dụng nhiều tại các dự án ở Mỹ và Australia để xác lập chất lượng uranium của một loạt các mỏ uranium và các dự án thăm dò.
Thông qua áp dụng công nghệ này mà độ phân giải bản đồ và chiều sâu thâm nhập được nâng cấp rất lớn; qua đó đem lại hiệu quả cho các dự án thăm dò, phát triển và khai thác các mỏ, và các nhà đầu tư uranium. So với những hạn chế của các công nghệ trước đây, nhà địa vật lý đã nâng cấp phần cứng và phần mềm rất nhiều, tạo điều kiện cho phân tích tại hiện trường và diễn giải kết quả, việc này cũng giúp công việc tại phòng thí nghiệm trong đánh giá tài nguyên.