Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) đã chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019, mở ra thời kỳ hội nhập kinh tế mới, tạo nên một khu vực kinh tế tự do khổng lồ, có phạm vi thị trường khoảng 500 triệu người dân và chiếm 13% GDP toàn cầu.
Trước những cơ hội và thách thức mà Hiệp định CPTPP mang lại, ngày 18/1/2019, Bộ Công Thương, báo Vnexpress và Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân phối hợp tổ chức Hội thảo “CPTPP với doanh nghiệp Việt: Lợi ích hay thách thức” để giúp các Bộ, ngành, doanh nghiệp, đơn vị liên quan có sự chuẩn bị chiến lược để đón nhận nhiều lợi ích và giảm thiểu thách thức.
Bà Bùi Kim Thùy, đại diện Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN tại Việt Nam đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quy tắc xuất xứ. Theo bà, quy tắc xuất xứ sẽ xác định hàng hóa nhập khẩu đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan hay không, đồng thời đảm bảo sự cân bằng giữa "thuận lợi hóa thương mại" và "phòng tránh gian lận thương mại".
Bà Thùy cho biết xuất xứ thuần túy được hiểu trong các FTA cũ là 100% các nguyên vật liệu tạo nên sản phẩm phải nằm toàn bộ trong quốc gia đó. Đây là quy tắc xuất xứ chặt để ngăn chặn các quốc gia không phải là thành viên của hiệp định tận dụng các ưu đãi thuế, hay còn được gọi là "free rider".
Về yếu tố cộng gộp trong CPTPP, nguyên liệu nhập khẩu không đạt xuất xứ CPTPP nhưng có giá trị gia tăng trong CPTPP (dù chỉ 1%), thì số phần trăm giá trị gia tăng thực tế của nguyên liệu đó sẽ được cộng gộp để tính hàm lượng CPTPP trong sản phẩm được sản xuất tại nước xuất khẩu sản phẩm đó.
Ví dụ như một gói cafe được sản xuất tại Biên Hòa lấy cà phê từ Buôn Mê Thuột, sữa từ Mộc Châu, đường từ Quảng Ngãi. Bốn tỉnh này đều nằm trong lãnh thổ Việt Nam. CPTPP coi mỗi quốc gia trong Hiệp định là một tỉnh. Khi đó, CPTPP không cần chỉ số RCV (Regional Value Content - hàm lượng giá trị khu vực) phải đạt 40% như các FTA khác. Kể cả 15, 20% vẫn được cấp C/O bình thường.
"Đây là yếu tố linh hoạt đặc biệt tốt cho chuỗi cung ứng, đối với các ngành sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có đủ nguồn lực như các doanh nghiệp lớn", bà Thùy nhấn mạnh. Với các Hiệp định trước đây, 39% cũng không được cộng gộp. Còn với CPTPP được phép cộng gộp dù chỉ 1%.
Cùng với đó, quy tắc linh hoạt c ưu đãi thuế quan đặc biệt. Tiêu biểu, sợi không có xuất xứ được phép chiếm không quá 10% trọng lượng vải sử dụng để tạo nên thành phẩm. Ví dụ, trong 100 tấn sợi, doanh nghiệp dệt may có quyền linh hoạt 10 tấn vẫn được hưởng ưu đãi. Quy tắc này chỉ áp dụng duy nhất trong ngành dệt may về trọng lượng.
Còn nếu tính về giá trị, nhiều ngành hàng vẫn được hưởng chính sách này. Tuy nhiên, không áp dụng với một số nguyên liệu sử dụng để sản xuất bơ sữa và các sản phẩm bơ sữa, một số loại nước ép hoa quả và một số loại dầu ăn.
Ngoài ra, chia sẻ thêm về cơ chế C/O, bà Thùy cũng cho biết, hiện tại yêu cầu nhà xuất khẩu nộp hồ sơ xin cấp C/O từ cơ quan, tổ chức đươc Chính phủ ủy quyền cấp, sau đó chờ từ 4h đến 3 ngày làm việc để có được C/O, cộng thêm các loại phí, lệ phí.
Khi gia nhập CPTPP doanh nghiệp có thể tự chứng nhận xuất xứ do nhà xuất khẩu nhà nhập khẩu được ủy quyền tự chứng nhận xuất xứ cho sản phẩm được sản xuất hoặc do mình sở hữu, nhờ đó có thể chủ động trong các thủ tục liên quan đến C/O, không mất thời gian chờ đợi cũng như lệ phí.
Mặc dù quy định trong CPTPP linh hoạt, nhưng nhiều chuyên gia và các doanh nghiệp cho rằng có nhiều thách thức đặt ra đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập CPTPP. Ông Nguyễn Cao Trí, Tổng Giám đốc NS BlueScope Lysaght Việt Nam chia sẻ, tham gia CPTPP, trong khi các nước chuyên về chăn nuôi họ có nhiều điểm mạnh lớn về thương hiệu, quy mô hệ thống quản lý trang trại, chất lượng… thì bản thân ngành chăn nuôi của Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh.
Nguyên nhân cơ bản là do hệ thống chuồng trại manh mún, chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình, vừa và nhỏ nên năng suất thấp cũng như giá thành chưa cạnh tranh bởi nguyên liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu, nguồn giống chưa có năng suất cao, hệ thống quản lý trang trại chưa tối ưu...
Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), quy định xuất xứ từ sợi của CPTTP đã đánh đúng vào điểm nghẽn của ngành khi doanh nghiệp dệt may vẫn phải nhập gần 99% bông, 1,3 triệu tấn sơ xợi, 80% vải... Đối với lĩnh vực may, dù Việt Nam có thế mạnh nhưng chủ yếu vẫn là hình thức gia công với 76% lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông.
Đồng tình với ý kiến trên, bà Bùi Kim Thuỳ nhấn mạnh, trong những ngành hàng có thế mạnh của Việt Nam hiện nay ngành hàng dệt may được dự báo sẽ gặp khó khăn nhất và chịu tác động lớn nhất vì những quy định xuất xứ hàng hoá (rủi ro và cơ hội) của CPTPP.
Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ kỹ thuật, bà Thùy cho rằng, CPTPP là Hiệp định duy nhất Việt Nam tham gia có chương dệt may đứng riêng mà không chung với bất cứ chương nào khác. Đặc biệt, trong tổng số các chương, ngành dệt may từ chương 50 - 63 là các nhóm hàng phổ biến nhất và được đứng riêng, không bị ghép chung với các chương khác.
Để nắm bắt được cơ hội từ CPTPP, ông Trương Văn Cẩm cho rằng, các doanh nghiệp dệt may phải hiểu về CPTTP, nắm kỹ thông tin về ngành dệt may từ đó nhận ra thế mạnh, lợi thế của mình trong CPTTP để đánh đúng thị trường. Muốn giải quyết được điểm nghẽn, các doanh nghiệp mạnh phải liên kết với nhau, cần xây dựng chuỗi liên kết doanh nghiệp, nhất là trong nước và đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh vấn đề đào tạo.