Kinh tế vĩ mô với nhiều điểm sáng
Sau một năm 2016 tăng trưởng không như kỳ vọng, kinh tế Việt Nam năm 2017 đã khởi sắc hơn với mức tăng trưởng cả năm ước đạt 6,81%, vượt chỉ tiêu đề ra của Quốc hội.
Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp cho thấy sự phục hồi rõ rệt nhất, khi mức tăng trưởng khu vực này cả năm đạt 2,90%, cao hơn đáng kể so với mức tăng của hai năm trước đó. Khu vực dịch vụ cũng đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, với mức tăng 7,44% cả năm. Trong đó, lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và kinh doanh bất động sản ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm qua, lần lượt đạt 8,14% và 4,07%.
Công nghiệp chế biến chế tạo như mọi năm vẫn luôn là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Năm 2017 ghi nhận mức tăng trưởng lên đến 14,40% của lĩnh vực này. Trong khi đó, toàn khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng chỉ đạt 8,00%, chủ yếu đến từ sự thu hẹp ngành khai khoáng do chính sách định hướng lại nền kinh tế trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm chậm tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế trong năm 2017.
Lạm phát toàn phần trong cả năm 2017 chỉ tăng 2,60% so với cùng kỳ năm trước.Mặc dù có sự gia tăng mạnh trong hai tháng 8 và 9 vì yếu tố mùa vụ, nhưng nhìn chung lạm phát trong năm liên tục đi xuống. Điều này trái ngược hoàn toàn với xu thế gia tăng liên tục trong năm 2016.
Nguyên nhân chính khiến lạm phát năm nay ở mức thấp, ngoài việc giá lương thực giảm mạnh vào nửa đầu năm do dư thừa đàn lợn, còn đến từ việc theo đuổi chính sách tiền tệ chặt chẽ, thể hiện qua khuynh hướng đi xuống của lạm phát lõi. Điều này đã tạo ra một cơ hội cho việc điều chỉnh giá một số dịch vụ công cơ bản mà năm 2016 chưa thực hiện xong.Cụ thể, nhiều tỉnh đã thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm, khiến mức giá của nhóm hàng này tăng 27,79% so với năm 2016. Cùng với đó, giá dịch vụ giáo dục vẫn theo đúng chu kỳ tăng mạnh vào hai tháng Tám và Chín, khiến chỉ số giá của nhóm này tăng 7,29%. Sau các đợt điều chỉnh giá xăng dầu, chỉ số giá của nhóm hàng giao thông tháng Mười Hai cũng tăng 6,04% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 1: Lạm phát Việt Nam 2015-2017 (so với cùng kỳ năm trước)

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu của TCTK
Chính sách tiền tệ trong năm 2017 tiếp tục được thực hiện một cách chặt chẽ dù Ngân hàng Nhà nước có nhiều tuyên bố thể hiện khuynh hướng nới lỏng. Thặng dư trên cán cân thanh toán đã giúp NHNN liên tục mua vào ngoại tệtrong suốt cả năm, giúp dự trữ ngoại hối đạt 51,5 tỉ USD (trên 2,7 tháng nhập khẩu)theo như công bố của Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trong phiên họp cuối năm. Lượng ngoại tệ dồi dào làm giúp giảm sức ép giảm giá VND, thậm chí ngược lại. Do đó, NHNN có thêm không gian để giảm nhẹ lãi suất VND nhằm thúc đẩy kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng trong tăng trưởng và lạm phát, nền kinh tế vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế lớn có thể gây tác động tiêu cực lên ổn định kinh tế vĩ mô. Một trong số đó đến từ việc ngân sách nhà nước tiếp tục bội chi trong nhiều năm. Cùng với đó, tiến độ thu chi ngân sách vẫn còn rất chậm so với cùng kỳ các năm trước. Tính tới thời điểm 15/12/2017, tổng thu ngân sách chỉ đạt 1.104 nghìn tỉ đồng, bằng 91,1% dự toán năm. Trong khi nguồn thu chưa thấy có sự cải thiện, chi ngân sách nhà nước vẫn luôn là một gánh nặng bởi một bộ máy cồng kềnh và tốn kém. Tính đến 15/12/2017, tổng chi ngân sách nhà nước đã đạt 1.219,5 nghìn tỉ đồng, dẫn tới bội chi ngân sách 115,5 nghìn tỉ đồng. Ngoài ra, chi đầu tư phát triển chỉ đạt 259,5 nghìn tỉ đồng, bằng 72,6% dự toán, cho thấy quy trình giải ngân các dự án đầu tư phát triển vẫn còn rất chậm.
Thương mại trong năm 2017 cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tính đến hết tháng 12, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 213,77 tỉ USD, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn chủ yếu đến từ nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 72,6%, thể hiện sự phụ thuộc lớn vào khu vực này.
Những dấu ấn cải cách mang tính kiến tạo
Môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2017 tiếp tục được cải thiện rõ rệt, khi số doanh nghiệp đăng ký hoạt động mới nhiều hơn và số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động cũng thấp hơn. Tính đến hết tháng 12, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng 15,2% so với năm trước. Số vốn đăng ký trung bình trên một doanh nghiệp cũng tăng đáng kể ở mức 26,2% và đạt 10,2 tỉ đồng/doanh nghiệp. Trái ngược với năm 2016, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp năm nay tăng 5,1%.
Hình 2: Tình hình hoạt động doanh nghiệp (nghìn DN; nghìn người)

Chỉ số mức độ thuận lợi trong kinh doanh (EDBI) của Việt Nam do Ngân hàng Thế giới tổng hợp cũng được cải thiện. Theo đó, Việt Nam đã thăng lên hạng 82 trên tổng số 190 quốc gia, và được dự báo sẽ tiếp tục thăng lên hạng 68 trong năm 2018. Sự cải thiện này đến từ nhiều yếu tố khác nhau như: nâng độ tin cậy về cung ứng điện năng qua triển khai hệ thống quản lý năng lượng tự động SCADA; tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp khi mở rộng phạm vi các loại tài sản có thể đem ra thế chấp; (nâng cấp hệ thống thông quan hàng hóa tự động giúp xuất nhập khẩu trở nên dễ dàng hơn...
Hình 3: Các chỉ số đánh giá mức
độ thuận lợi trong kinh doanh
của Việt Nam, 2014-2018
Thứ hạng
2018
2017
2016
2015
2014
Thứ hạng tổng hợp
68
82
90
78
99
1. Khởi sự kinh doanh
123
121
119
125
109
2. Xin giấy phép xây dựng
20
24
12
22
29
3. Đăng ký tài sản
63
59
58
33
51
4. Tiếp cận điện năng
64
96
108
135
156
5. Khả năng vay vốn
29
32
28
36
42
6. Bảo vệ nhà đầu tư
81
87
122
117
157
7. Nộp thuế
86
167
168
173
149
8. Giao thương quốc tế
94
93
99
75
65
9. Thực thi hợp đồng
66
69
74
47
46
10. Xử lý vỡ nợ, phá sản
129
125
123
104
149
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2017)
Việt Nam cũng thăng 5 hạng trong chỉ số cạnh tranh toàn cầu (CGI) lên hạng 55/137 quốc gia theo công bố của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Điều này đến từ những tiến bộ trong mức độ sẵn sàng đổi mới công nghệ và hiệu quả thị trường lao động. Bên cạnh đó, thương mại mở rộng cũng là một yếu tố lớn giúp Việt Nam thăng hạng, với tỉ lệ nhập khẩu/GDP đứng thứ 7 và xuất khẩu/GDP đứng thứ 11.
Kinh tế vĩ mô ổn định cùng với những cải cách thể chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư được Chính phủ chỉ đạo quyết liệt được kỳ vọng sẽ phát huy hiệu quả, hỗ trợ tích cực hơn cho hoạt động kinh doanh trong năm 2018. Đặc biệt, việc tổ chức thành công sự kiện APEC cũng như đạt được thỏa thuận CPTPP cũng mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế trong tương lai khi niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài liên tục được củng cố.
Tiếp tục cải cách để xây dựng nhà nước kiến tạo
Bướcsangnăm 2018, nhiều vấn đề nội tại cố hữu của nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa được giải quyết triệt để có thể sẽ kéo lùi nền kinh tế trong tương lai.Trong bối cảnh này, chúng tôi đề xuất một số những khuyến nghị chính sách nhằm tiếp tục xây dựng nhà nước kiến tạo trong tương lai.
Thứ nhất,mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và xã hội cần được tăng cường thể chế hoá, đặc biệt nâng cao trách nhiệm giải trình với người dân sẽ giúp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Nhà nước sẽ hiện thực hóa các đường lối của Đảng thông qua luật pháp, giúp giảm chồng chéo trong quản lý và giám sát.
Thứ hai, cần tăng cường tính chuyên nghiệp và độc lập của hệ thống tư pháp Việt Nam, chẳng hạn theo kinh nghiệm của Nhật Bản. Nếu làm được điều này thì các hoạt động chống tham nhũng trong Đảng mới thực sự hiệu quả và không hình thức.
Thứ ba, cần chuyên nghiệp hóa và kĩ trị hóa hệ thống hành chính nhà nước và quốc hội. Cụ thể hơn, cần tách bạch bộ máy kĩ trị với hệ thống chính trị để bộ máy hành chính nhà nước vận hành ổn định.
Thứ tư,cần tinh giản bộ máy hành chính nhà nước và giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào nền kinh tế. Nhà nước sẽ chỉ điều hành và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng luật thay vì trực tiếp tham gia. Để thực hiện chủ trương này, trước mắt cần xoá bỏ cơ chế bộ chủ quản đối với các DNNN. Các cơ quan quản lý nhà nước với các DNNN phải độc lập với các cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu trong các DNNN.
Thứ năm,cần kiến tạo môi trường pháp lý và môi trường xã hội nhằm tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia nhiều hơn nữa của xã hội công dân vào việc xây dựng xã hội, nâng cao trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước.