So với các huyện ngoại thành Hà Nội, Ba Vì là một huyện bán sơn địa, có một phần lớn phía Nam của dãy núi Ba Vì chạy qua; phía Đông giáp thị xã Sơn Tây; phía Đông Nam giáp huyện Thạch Thất; phía Nam giáp các huyện Lương Sơn và Kỳ Sơn của tỉnh Hòa Bình; phía Tây và phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, với ranh giới là sông Đà (ở phía Tây) và sông Hồng, sông Thao (ở phía Bắc). Một số xã phía Đông Bắc giáp huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ranh giới là sông Hồng. Ba Vì hiện có hai hồ lớn là hồ Suối Hai và hồ Đồng Mô. Các hồ này đều là hồ nhân tạo và nằm ở đầu nguồn sông Tích Giang, chảy sang thị xã Sơn Tây, và một số huyện phía Tây Hà Nội rồi đổ nước vào sông Đáy. Trên địa bàn Huyện còn có vườn quốc gia Ba Vì nổi tiếng. Ranh giới của Huyện với tỉnh Phú Thọ có hai ngã ba sông, gồm ngã ba Trung Hà giữa sông Đà và sông Hồng (tại xã Phong Vân) và ngã ba Bạch Hạc giữa sông Hồng và sông Lô (tại các xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện với thành phố Việt Trì).
Là huyện thuần nông, ít ngành nghề phụ, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của địa phương nên đời sống của người dân Ba Vì chưa cao. Cụ thể, nhóm ngành nông, lâm ngư nghiệp chiếm 46,2%; công nghiệp - TTCN, xây dựng chiếm 24,4%; thương mại, du lịch, dịch vụ chiếm 29,4%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 6,23 triệu đồng/năm. Những năm gần đây, đời sống kinh tế, xã hội của Ba Vì đã có nhiều thay đổi, đặc biệt kinh tế huyện đang dần chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Sau khi bàn giao xã Tân Đức (năm 2008) về tỉnh Phú Thọ, hiện Ba Vì còn 31 xã, thị trấn, với 188 làng, trong đó có 14 làng nghề theo 4 nhóm nghề là làm nón, chế biến chè khô, chế biến tinh bột và tơ tằm, phân bố ở 4 xã trong huyện (xã Ba Trại 9 làng; xã Phú Châu 3 làng; xã Minh Quang 1 làng; xã Thuần Mỹ 1 làng), 44 làng có nghề sản xuất công nghiệp – TTCN, 28 làng có nghề dịch vụ thương mại, 102 làng thuần nông. Tổng doanh thu của các làng nghề năm 2007 đạt 52,27 tỷ đồng, chiếm 15,8% cơ cấu kinh tế công nghiệp, tạo việc làm cho 10.260 lao động. Tốc độ phát triển các làng nghề của Ba Vì còn chậm, manh mún, nhỏ lẻ, không tập trung, chưa được quy hoạch thành các cụm, điểm,…nhưng trong bối cảnh chung của các địa phương mới hợp nhất về Hà Nội thì những đóng góp của làng nghề Bà Vì trong việc chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế Huyện đã mang một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Đặc điểm chung của các làng nghề tại Ba Vì là đều có các Công ty, HTX tại địa phương, vừa cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất, vừa bao tiêu sản phẩm. Do đó, hiện nay sản phẩm của các làng nghề được tiêu thụ tương đối ổn định.
Làng nghề nón lá xã Phú Châu : “nghề phụ” cho “thu nhập chính”
Xã Phú Châu có diện tích tự nhiên khoảng 988 ha, gồm 2.215 hộ, dân số 9.585 người, phân bổ tương đối đồng đều tại 03 làng.
Nghề nón của xã Phú Châu được hình thành từ năm 1954, cô gái làng Chuông (Thanh Oai) Phạm Thị Nhàn lấy chồng làng Phú Xuyên, xã Phú Châu đã mang nghề sản xuất nón lá từ làng Chuông về nhân cấy ở địa phương. Những năm đầu cũng chỉ có một vài hộ theo nghề, cùng với thời gian, số lượng hộ gia đình, người lao động theo nghề làm nón ngày càng đông, rồi nghề được nhân cấy từ làng Phú Xuyên lan ra cả xã Phú Châu. Đến nay, đã có khoảng 90% hộ gia đình trong xã làm nghề, tạo công ăn việc làm cho gần 5.000 lao động chính, phụ trong những lúc nông nhàn. Nghề nón lá đã góp phần tăng thu nhập cho người dân địa phương, với nhiều hộ gia đình, làm nón lá là “nghề phụ” cho “thu nhập chính”, nguồn thu chủ yếu đều từ nón lá. Năm 2001, Phú Châu được công nhận là một trong ba làng nghề sản xuất nón lá tiêu biểu của tỉnh Hà Tây. Sau hơn 50 năm hình thành và phát triển đến nay, xã Phú Châu có 12 hộ kinh doanh cá thể, 1 HTX nón là Phương Nam. Các đơn vị này cung cấp vật tư phục vụ sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho làng nghề. Năm 2007, cả Phú Châu sản xuất được 1,8 triệu chiếc nón, doanh thu đạt 16,2 tỷ đồng.
Nguồn nguyên liệu phục vụ nghề nón chủ yếu được mua từ các tỉnh ngoài. Lá nón mua về từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, nứa lấy từ Phú Thọ. Đến nay, thị trường chính tiêu thụ sản phẩm nón Phú Châu là trong tỉnh và xuất sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch.
Nón lá là nghề thủ công, chủ yếu các công đoạn được thực hiện bằng tay, hiện nay, ở khâu vò lá, các hộ sản xuất đã đầu tư máy móc, giúp cải thiện sức lao động. Mức đầu tư thấp chỉ từ 2.000.000 – 3.000.000 đ/hộ, cũng có thể tạo thu nhập bình quân từ 400.000 – 500.000đ/người/tháng. Có thể nói, nghề nón Phú Châu đang có những triển vọng lớn để phát triển, đóng góp vào sự đổi thay của địa phương.
Làng nghề chế biến chè búp khô tại xã Ba Trại
Xã Ba Trại có diện tích tự nhiên là 2.017 ha, có 9/9 làng nghề, với 2.095 hộ, dân số 11.280 người. Từ năm 1970, nghề chế biến chè khô được phát triển mạnh và đến nay, toàn xã có 90% số hộ gia đình (4.500 lao động) theo nghề.
Do đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi, diện tích canh tác ít, nên từ lâu thu nhập của người dân Ba Trại phụ thuộc nhiều vào cây chè và nghề chế biến chè. Hiện Ba Trại có 458 ha đất trồng chè, sản lượng chè búp khô năm 2007 là 720 tấn, doanh thu mang lại là 32,4 tỷ đồng.
Ba Trại hiện có 35 hộ kinh doanh cá thể và Công ty TNHH Hoàng Mai. Với lợi thế của địa phương, Ba Trại hoàn toàn chủ động được nguyên liệu, cung ứng sản phẩm chè búp khô cho địa phương và một vài tỉnh lân cận, đồng thời, bước đầu phục vụ cho xuất khẩu.
Để từng bước nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, các hộ dân trong xã đã tích cực đầu tư dây chuyền công nghệ như máy vò, máy sao chè mini và sử dụng nhiên liệu tạo nhiệt chủ yếu là củi. Đến nay, gần 100% số hộ tại Ba Trại đã có máy vò, máy sao chè,…nhiều hộ đầu tư tới 30 - 50 triệu đồng để lắp đặt thiết bị chế biến chè, thu nhập của người lao động đạt từ 1.000.000 – 1.200.000đ/người/tháng.
Làng sản xuất tinh bột Minh Hồng, xã Minh Quang
Làng nghề tinh bột Minh Hồng thuộc xã Minh Quang, một xã miền núi của huyện Ba Vì, làng nghề được hình thành từ chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới năm 1965 của Đảng và Nhà nước. Năm đầu, có 125 hộ (96% các hộ từ Vân Sa, Tản Hồng) lên Minh Quang làm kinh tế mới, các hộ này chủ yếu trồng sắn, đao, đót. Diện tích cây trồng này ngày một tăng và đến năm 1967, có 10 hộ bắt đầu chế biến tinh bột sắn để nâng cao hiệu quả sản xuất, giai đoạn này, chủ yếu là sản xuất thủ công. Năm 2001, làng được UBND tỉnh Hà Tây công nhận là làng nghề chế biến tinh bột. Đến năm 2007, cả làng có trên 260 hộ, với 1.190 nhân khẩu làm nghề, trong đó có đến 96,9% hộ và 560 lao động làm nghề chế biến áp dụng công nghệ xử lý bóc vỏ và nghiền bằng máy. Hiện mức tăng trưởng bình quân hàng năm của làng nghề đạt từ 6 -10%/năm. Năm 2007, sản lượng tinh bột đạt 2.600 tấn, thu về 4,57 tỷ đồng. Xã Minh Hồng hiện có 40 hộ kinh doanh cá thể, vừa cung ứng vật tư, nguyên liệu, vừa bao tiêu sản phẩm cho làng nghề. Hiện nay, với các sản phẩm chính là tinh bột sắn, tinh bột đót, miến rong, nguồn nguyên liệu chủ yếu lấy từ địa phương và một phần nhập về từ Hòa Bình. Thị trường tiêu thụ chính là trong tỉnh và một vài tỉnh lân cận. Với mức đầu tư 50.000.000 đồng, thì thu nhập bình quân từ 1.000.000 – 1.200.000 đồng/tháng. Các hộ sản xuất chủ yếu xử lý môi trường bằng hình thức đào hố chứa trên đất vườn đồi, sau một thời gian lấy làm phân bón, tuy nhiên, với những cơ sở lớn, việc xử lý môi trường còn nhiều hạn chế.
Làng nghề chế biến kén tằm Lương Phú, xã Thuần Mỹ
Làng Lương Phú có 250 hộ, dân số 1.047 người. Nghề chế biến kén tằm theo những người cao tuổi kể lại đã có gần 100 năm, tuy nhiên, có những thời kỳ, cả làng chỉ còn một vài hộ theo nghề, nhưng với vị thế của một nghề truyền thống, từ năm 1990, nghề này đã phát triển mạnh trở lại. Đến năm 1998, đã có 60% dân số của làng theo nghề và năm 2001 làng được UBND tỉnh Hà Tây công nhận là làng nghề chế biến kén tằm, với sản lượng vào thời điểm đó là 18,5 vạn tấn tơ tằm. Tuy nhiên, từ năm 2007 đến nay, do biến động về giá kén tằm, diện tích trồng dâu nuôi tằm bị giảm đáng kể, nhiều hộ gia đình đã chuyển dịch sang các loại cây trồng khác, do đó, sản lượng chỉ còn 7,5 tấn.
Hiện nay ở Lương Phú có HTX chế biến kén tằm Thuần Mỹ, vừa cung ứng vật tư cho việc trồng dâu nuôi tằm, vừa chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho làng nghề. Nguồn nguyên liệu và thị trường của làng nghề hiện nay chủ yếu là trong huyện, tỉnh và một số địa phương lân cận. Với mức đầu tư 50 triệu đồng/hộ sản xuất, sẽ cho thu nhập bình quân từ 800.000 – 1.000.000đ/người/tháng. Hiện nay, 100% hộ sản xuất tại Lương Phú đã dùng máy quay khung gỗ, động cơ điện để sản xuất, nghề ít ảnh hưởng đến môi trường.
Hiện trạng chung của các làng nghề trên địa bàn Ba Vì
Các làng nghề đều phát huy được vai trò của mình trong việc tạo việc làm cho lao động tại địa phương. Với các hộ sản xuất tại làng nghề chè Ba Trại, chế biến tinh bột sắn Minh Quang, nghề mang lại cho một nguồn thu chính, còn tại làng nghề làm nón Phú Châu và tơ tằm Thuần Mỹ, nghề giúp tăng thu nhập, nâng cao và cải thiện mức sống cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, hiện nay, do việc đầu tư đổi mới thiết bị chưa đồng bộ do nguồn vốn vay để đổi mới công nghệ còn nhiều khó khăn, lãi suất cao, thời hạn ngắn. Mặt khác, sản phẩm của các làng nghề chưa thật phong phú và đa dạng về mẫu mã nên mới chỉ tiêu thụ chủ yếu tại địa phương và một số tỉnh lân cận, chứ chưa có khả năng xuất khẩu do chưa có thương hiệu nên giá trị mang lại chưa cao, chưa xứng tầm với vai trò và tiềm năng của các nghề.
Một trong những nghề truyền thống đã từng là niềm tự hào của Ba Vì nhưng đến nay gần như không còn tồn tại đó là nghề dệt lụa. Làng Cổ Đô (xã Cổ Đô) và làng Vân Sa (xã Tản Hồng) chính là nơi phát tích của nghề dệt lụa Việt Nam, tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, hiện nay tại 2 làng này hầu như không còn có dấu hiệu tồn tại của nghề. Hầu hết đều chuyển sang làm các nghề khác hoặc kinh doanh, thương mại. Cổ Đô trong quá khứ từng được biết đến như một làng lụa: “Lụa này thật lụa Cổ Đô, chính tông lụa cống các cô hay dùng”, làng bún, làng thơ,… thì nay lại được biết đến là làng họa sỹ (làng duy nhất của cả nước được gọi là làng họa sỹ và có bảo tàng tranh tư nhân đầu tiên của Việt Nam). Tuy nhiên, danh hiệu làng nghề thì vẫn chưa được công nhận,… Còn làng Vân Sa hiện nay, hầu hết thu nhập của người dân phụ thuộc vào nông nghiệp, một số hộ chuyển sang buôn bán, nghề dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm gần như không còn tồn tại.
Định hướng phát triển
Tiềm năng phát triển các làng nghề tại Ba Vì là không nhỏ và hệ thống các làng nghề này đang rất cần được đầu tư tập trung và dài hạn hơn nữa. Trong thời gian tới, Ba Vì sẽ tiếp tục đầu tư, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, cùng với đó là công tác nhân cấy nghề mới, đưa nghề vào các làng thuần nông chưa có nghề, để gia tăng số lượng làng nghề tại Huyện, có quy hoạch vùng nguyên liệu phục vụ cho các làng nghề tơ tằm, chế biến tinh bột sắn,…
Để làm được điều này, Ba Vì sẽ tập trung phối hợp với các ban, ngành trong Huyện để đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giúp đỡ các hộ sản xuất trong việc tiếp cận các nguồn vốn để đổi mới công nghệ, thiết bị, xây dựng thương hiệu cho làng nghề, nghề và sản phẩm nghề, trước mắt, những công việc cấp bách cần được triển khai ngay đó là hỗ trợ kinh phí để đầu tư hệ thống xử lý nước thải tại làng nghề chế biến tinh bột sắn của thôn Minh Hồng, xã Minh Quang, xây dựng thương hiệu cho chè Ba Vì và cứng hóa đường giao thông nông thôn tại các làng nghề.
Với những tiềm năng và thế mạnh của mình, cùng với sự quan tâm đúng mức của địa phương, tin rằng trong thời gian không xa, các làng nghề Ba Vì sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong việc tạo ra chuỗi giá trị của cải vật chất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đưa vùng đất Tản Viên thành một điểm sáng trong mô hình phát triển kinh tế và gìn giữ nghề truyền thống.
Xem tiếp bài: Làm "Sống" lại những pho tượng
http://www.tapchicongnghiep.vn/congnghieponline/khuyencong/2009/10/22670.ttvn