Điện gió: Muốn khỏe phải nhờ cơ chế

Chỉ cần đi đến địa phận huyện Tuy Hòa, tỉnh Bình Thuận, từ xa đã nhìn thấy thấp thoáng những cánh quạt gió quay tròn như chong chóng và có thể cảm nhận rất rõ nguồn phong điện mà nơi này được thiên nh

Tuy vẫn còn có những tranh luận về con số dự báo tiềm năng điện gió của Việt Nam, song ai cũng phải thừa nhận Việt Nam có tiềm năng lớn đối với loại hình năng lượng này, đặc biệt là tại các tỉnh “trung tâm điện gió” như Ninh Thuận và Bình Thuận.

Cái cảm giác bạt hơi đến khó thở vì gió mạnh có thể đo đếm được, chính là tốc độ gió từ 6-7m/s. Ở độ cao từ 60-80 m, tại Ninh Thuận và Bình Thuận người ta đã xây dựng nhiều trang trại gió với tổng công suất lên đến 9.500 MW, gấp 4 lần công suất Nhà máy Thủy điện Sơn La. Nhìn từ xa, những tuốc bin gió hình cánh quạt đứng cách nhau một khoảng đều tăm tắp không ngừng quay nổi bật giữa nền trời xanh trắng, căng tràn nắng của đất trời Bình Thuận. Càng đến gần những chiếc cột này, càng có cảm giác “choáng” vì sự to lớn, vững chắc và đặc biệt là sự hút gió đến choáng ngợp của cánh quạt. Mở cửa đi vào khám phá “ruột” những cây cột khổng lồ này mới thực sự thán phục: Như cả một nhà máy điện bên trong!

Đó là những trải nghiệm của một chuyến đi thăm quan Trung tâm Điện gió Bình Thuận từ năm 2011 mà Văn phòng Tiết kiệm năng lượng Bộ Công Thương tổ chức khiến cho người chưa biết gì về điện gió như chúng tôi bỗng có một cảm giác vô cùng gần gũi như có thể cầm, nắm được thứ năng lượng thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất này. Đó cũng là thời điểm mà Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg (ngày 29/6/2011) về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam.

Cũng trong năm 2011, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII) được phê duyệt cũng xác định mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam vào năm 2020 đạt 4,5%, năm 2030 là 6% trong tổng nguồn cung cấp điện của cả nước, trong đó, phát triển điện gió đạt 1.000MW vào năm 2020, đạt 6.200MW vào năm 2030, đưa tỷ trọng điện năng từ điện gió chiếm 0,7% năm 2020 lên 2,4% năm 2030. Với tiềm năng và hành lang pháp lý đó, đã có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước quan tâm đến điện gió tại Việt Nam.

Đến nay, cả nước hiện có trên 40 dự án điện gió đăng ký và đã có 3 dự án đang phát điện thương mại, đó là dự án điện gió Tuy Phong (Bình Thuận) công suất 30MW, dự án điện gió đảo Phú Quý công suất 6MW tại tỉnh Bình Thuận; dự án điện gió Bạc Liêu công suất 16,5MW tại tỉnh Bạc Liêu. Mới đây nhất, dự án điện gió Phú Lạc (tỉnh Bình Thuận) có công suất 20MW, tổng mức đầu tư gần 1.100 tỷ đồng cũng đã được khởi công xây dựng vào tháng 7/2015. Trong giai đoạn 1 của dự án, nhà máy có công suất 24MW, gồm 12 tua-bin gió V100 của Vestas (Đan Mạch), mỗi tua-bin có công suất 2MW.

Như vậy, có thể thấy tỷ lệ dự án phong điện được triển khai, đi vào hoạt động chỉ chiếm khoảng 10% tổng số dự án đăng ký. Ít vậy song tiềm năng điện gió ở Việt Nam thực sự gây sự thu hút nhà với các đầu tư. Họ luôn hy vọng về một hành lang pháp lý để thực hiện đầu tư vào các dự án điện gió cũng như nhận được sự hỗ trợ từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, điện gió tại Việt Nam vẫn “yếu” vì 3 nguyên nhân.

Nguyên nhân đầu tiên là giá. Giá mua điện gió của Nhà nước hiện nay thấp hơn giá thành (giá thành khoảng 9-10 cent USD/kWh), khiến nhà đầu tư e ngại khi triển khai thi công dự án. Giá mua điện gió của EVN chưa tương xứng với giá trị đầu tư của điện gió, hiện giá mua điện gió là 7,8 cents USD/ kWh (kể cả 1 cent USD trợ giá), trong khi đó suất đầu tư trung bình 1,9 triệu USD/MW điện gió, nên kéo dài thời gian hoàn vốn trên 10 năm. Điều này thực sự không hấp dẫn các nhà đầu tư.

Nguyên nhân tiếp theo là vốn. Hiện nay cơ chế bảo lãnh tiền vay nước ngoài cho các nhà đầu tư điện gió cũng không còn nữa nên với một dự án khoảng 50MW khó có doanh nghiệp nào tiềm lực đủ mạnh để đầu tư trực tiếp vào dự án. Chuyên gia cao cấp về năng lượng, ông Tô Quốc Trụ cho rằng, đối với điện gió hiện nay vấn đề khó khăn nhất là vốn. Đến nay, hầu hết các dự án điện gió đều do các công ty tư nhân triển khai và để triển khai được họ phải vay vốn, trong khi đó vay vốn thương mại thường lãi suất rất cao.

Nguyên nhân thứ ba là về thiết bị. Các thiết bị phát điện hiện nay hầu hết phải nhập khẩu nếu mua thiết bị của các hãng nổi tiếng của các nước phát triển như VESTAS (Đan Mạch), GAMESA (Tây Ban Nha)... thì chất lượng rất tốt, nhưng giá của các thiết bị thường rất đắt, từ đó kéo theo giá thành điện gió sẽ cao. Đã có doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất trụ điện, vấn đề còn lại là cần đầu tư để nội địa hóa thiết bị phát điện. Hiện cũng đã có một doanh nghiệp của Mỹ đầu tư nhà máy sản xuất thiết bị phát điện của điện gió tại Việt Nam. Việc kết hợp để có nhà máy điện gió với thiết bị có tỷ lệ nội địa hóa cao sẽ làm giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành cho điện gió và tháo gỡ khó khăn trong thu hút đầu tư phát triển điện gió tại Việt Nam.

Được biết, cuối năm 2015, Bộ Công Thương sẽ trình Chính phủ phê duyệt quyết định bổ sung một số chính sách hỗ trợ phát triển điện gió. Hy vọng việc nhìn ra những nguyên nhân khiến cho việc đầu tư vào điện gió bị hạn chế sẽ mang tới những cải tiến, những điều chỉnh để điện gió Việt Nam thêm phát triển.