Ngày 11/12/2025, tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo “Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long tham dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có các đại biểu đến từ Văn phòng Chính phủ; các Bộ, Ban, ngành liên quan; các đơn vị trực thuộc Bộ Công Thương; một số tỉnh thành, các viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, chuyên gia trong và ngoài nước.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long cho biết, Đề án Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (sau đây gọi là Đề án) được xây dựng nhằm đánh giá toàn diện cung - cầu năng lượng, kết nối phát triển năng lượng với các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường và xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu.
Trong giai đoạn phát triển mới, ngành năng lượng Việt Nam đang điều chỉnh để thích nghi với các xu hướng năng lượng toàn cầu thể hiện qua 5 khía cạnh chính: thị trường năng lượng quốc tế; đảm bảo an ninh năng lượng; giá năng lượng và chi phí công nghệ năng lượng; xu thế chuyển dịch năng lượng và bảo vệ môi trường chống biến đổi khí hậu. Trên cơ sở đó, Chính phủ yêu cầu phương án điều chỉnh phải đưa ra giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng năng lượng tối ưu, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn tới.
Theo Thứ trưởng, việc điều chỉnh Quy hoạch tập trung vào 3 nội dung trọng tâm. Thứ nhất, hạ tầng năng lượng phải đáp ứng tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030 (theo Nghị quyết số 306/NQ-CP năm 2025 của Chính phủ), đồng thời đảm bảo dự phòng cao và khả năng sẵn sàng tuyệt đối. Thứ hai, quy hoạch phải thích ứng với việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính, rà soát và ưu tiên danh mục dự án phù hợp với không gian kinh tế - xã hội mới. Thứ ba, quy hoạch bám sát chủ trương, định hướng của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung quy hoạch năng lượng quốc gia.
Tại Hội thảo, Liên danh Viện Năng lượng - Viện Dầu khí Việt Nam báo cáo tóm tắt nội dung Đề án và phương án quy hoạch các phân ngành than và dầu khí. Theo đó, tổng cung cấp năng lượng sơ cấp (NLSC) của Việt Nam năm 2024 ước tính đạt 116 KTOE (nghìn tấn dầu tương đương), tăng 4,9% trong giai đoạn 2021 - 2024.
Trong đó, than và năng lượng tái tạo có tốc độ tăng tương ứng là 5,9%/năm và 7,8%/năm trong cùng kỳ. Điều này cho thấy dấu hiệu tốt về chuyển dịch năng lượng, nhưng tính đa dạng hóa của nguồn cung năng lượng sơ cấp vẫn cần cải thiện. Nguồn cung năng lượng sơ cấp còn phụ thuộc nhiều vào một số ít loại hình năng lượng, cũng như nhu cầu nhập khẩu nhiên liệu.
Số liệu thống kê cho thấy, nhiên liệu nhập khẩu chiếm 41,9% vào tổng cung sơ cấp, đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay. Đây là xu hướng đáng lưu ý đối với việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong dài hạn.
Trong những năm tới, xu thế phát triển năng lượng thế giới sẽ tập trung vào việc thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch năng lượng, thực thi các chính sách mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu và tăng cường an ninh năng lượng.
Lộ trình an ninh năng lượng và chuyển dịch năng lượng được nêu chi tiết trong Đề án. Cụ thể, đến năm 2026, đảm bảo khai thác tối đa, sử dụng hiệu quả tài nguyên dầu, khí, than trong nước; đảm bảo hạ tầng nhập khẩu than, LNG; khuyến khích nguồn điện mặt trời mái nhà, nguồn đồng phát, tự sản xuất tự tiêu thụ; đảm bảo 50% - 70% hộ sử dụng tiếp cận công nghệ hiệu suất cao.
Đến năm 2030, đẩy mạnh khai thác tài nguyên dầu khí, than trong nước; Không phát triển nhiệt điện than mới ngoài quy hoạch; Sản lượng điện gió ngoài khơi đạt 6 GW, điện gió trên bờ đạt 38 GW, điện mặt trời điện đạt 36 GW; 100% xăng E10 trong giao thông vận tải, phương tiện giao thông vận tải điện chiếm hơn 10%; Hơn 70% hộ sử dụng tiếp cận công nghệ hiệu suất cao; Hạn chế tối đa đầu tư nồi hơi đốt than; Chuyển đổi năng lượng sang khí tự nhiên, sinh khối trong các ngành công nghiệp; Thực thi tòa nhà hiệu quả năng lượng, tòa nhà xanh; Đảm bảo dự trữ xăng dầu 90 ngày nhập ròng.
Đến năm 2040, sản xuất các sản phẩm phi năng lượng từ dầu khí, than; Đẩy mạnh chuyển đổi nhiên liệu cho nhà máy nhiệt điện hydrogen, amoniac, sinh khối; Phát triển truyền tải điện HVDC; 90% hộ sử dụng tiếp cận công nghệ hiệu suất cao; Sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học cao cấp trong giao thông vận tải; Tỷ trọng phương tiện giao thông điện chiếm hơn 20%; Thực thi tòa nhà trung hòa carbon; Năng lực sản xuất hydrogen xanh đạt khoảng 2 triệu tấn; Công suất thu giữ CO2 đạt khoảng 1 triệu tấn.
Đến năm 2050, chuyển đổi hoàn toàn nhiên liệu cho nhiệt điện hiện hữu hydrogen, amoniac, sinh khối; Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo: điện gió ngoài khơi đạt 113 - 139 GW, gió trên bờ 84 - 91 GW, điện mặt trời đạt 293 - 295 GW; Sử dụng 100% nhiên liệu xanh trong giao thông vận tải; Tỷ trọng phương tiện giao thông điện chiếm hơn 50%; 100% hộ sử dụng tiếp cận công nghệ hiệu suất cao; 100% tòa nhà xây mới là trung hòa carbon; Năng lực sản xuất hydrogen xanh đạt 10 - 20 triệu tấn; Công suất thu giữ CO2 đạt khoảng 5 - 10 triệu tấn.

Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu tham dự đóng góp tham vấn đối với Đề án. Các chuyên gia đều nhất trí các kịch bản quy hoạch đề ra đã đáp ứng yêu cầu cung cấp đầy đủ năng lượng phục vụ phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu tăng trưởng cao trong thời kỳ 2026 - 2030 cũng như bám sát các mục tiêu của Nghị quyết số 70/NQ-TW và mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Đại diện các cơ quan đề xuất, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, để đảm bảo an ninh năng lượng cung cấp đầy đủ năng lượng phục vụ phát triển kinh tế xã hội có mức tăng trưởng cao, cần thực hiện nhiều cơ chế tháo gỡ, giải pháp đồng bộ, với sự nỗ lực tham gia các ngành, các cấp, các địa phương. Trên cơ sở đó, kiến nghị Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch năng lượng quốc gia với các nội dung chính được nêu tại Đề án để làm cơ sở tổ chức triển khai thực hiện
