Nông phẩm
Giá bán buôn trung bình 18 loại rau củ quả tại thị trường Trung Quốc trong tuần từ 13 – 19/1/2014 đã giảm 1,4% so với một tuần trước đó. Trong đó, giá cần tây, củ cải trắng và ớt xanh có mức giảm giá lớn nhất với mức giảm lần lượt đạt 7,1%, 6,9% và 4,4%. Giá bán buôn trung bình các loại thủy sản đã giảm 0,1% so với một tuần trước.
Giá bán buôn các loại thịt đã biến động nhẹ, giá bán buôn thịt lợn đã giảm 1,3%, giá thịt cừu đã tăng 0,6% và giá thịt bò được giữ không đổi. Giá bán lẻ thịt gà và trứng đã tăng nhẹ. Giá trứng và thịt gà làm sẵn đã tăng 0,1% so với một tuần trước.
Giá bán lẻ các loại dầu ăn và ngũ cốc đã biến động, giá dầu hạt cải đã giảm 0,1% so với tuần trước, giá bán lẻ bao gạo loại nhỏ đã tăng 0,2%. Trong khi đó, giá bao bột loại nhỏ, dầu đậu nành và dầu đậu phộng được giữ không đổi.
Nguyên nhiên liệu
Giá các loại nhiên liệu đã giảm 1,6%. Trong đó giá than nguyên khai đã giảm 2,1%, giá than non (lignite), than mỡ (bitum), than anthracite đã lần lượt giảm 3,1%, 1,8% và 1,5% so với một tuần trước.
Giá các kim loại màu đã giảm 0,6%; giá nhôm loại A00 đã giảm 2,7%. Giá đồng loại 1 đã được giữ nguyên, trong khi đó, giá niken loại 1, thiếc loại 1, kẽm loại 1 và chì loại 1 đã lần lượt tăng 3,9%, 1,1%, 1% và 0,2%. Giá cao su tại thị trường Trung Quốc đã giảm 0,5%. Trong đó, giá cao su tiêu chuẩn loại 1 được sản xuất tại Trung Quốc và cao su tấm hun khói loại nhập khẩu đã giảm lần lượt 1,2% và 1,1%.
Gúa các loại sản phẩm hóa chất đã giảm 0,5%, giá nhựa LDPE (PE tỷ trọng thấp) và phenol đã lần lươt giảm 3,2% và 2%. Giá các loại thép cũng đã giảm 0,2%. Trong đó, giá thanh thép có ren loại Φ 12 mm, giá dây cáp Φ 6,5 mm và thép cuộn cán nóng loại 145 x 2,5 mm đã đồng loạt giảm 0,3%.
Giá các loại khoáng sản về cơ bản đã được giữ ổn định, giá quặng antimon, quặng đồng và quặng kẽm đã lần lượt tăng 2,3%, 0,2% và 0,1% trong khi đó giá quặng chì được giữ không đổi.