Giá mặt hàng nông sản, nguyên liệu của Trung Quốc tuần từ 16 – 22/9/2013

Theo Bộ Thương mại Trung Quốc, giá các mặt hàng nông sản, thủy sản và nguyên liệu tại 36 thành phố lớn tại Trung Quốc trong tuần trước (16 – 22/9/2013) đã có sự biến động. Giá các loại nông sản và thủ

Nông sản

Giá bán lẻ thịt gà và trứng tiếp tục tăng lên; trong đó, giá trứng tăng 0,7% so với tuần trước, giá gà tăng 0,3%. Giá các loại thịt cũng đã tăng lên; giá thịt lợn, thịt bò và thịt cừu tăng lần lượt: 0,2%, 0,6% và 0,1%.

Giá bán lẻ các loại thực phẩm ngũ cốc đã tăng nhẹ; trong đó, giá bán bao gạo và bột (loại nhỏ) đã tăng thêm 0,2% so với tuần trước.

Giá bán lẻ các loại dầu ăn đã giảm nhẹ; trong đó, giá dầu đậu nành, dầu đậu phộng và dầu hạt cải đã giảm 0,1%.

Một số loại rau quả đã bắt đầu vào vụ và được cung cấp ra thị trường với số lượng lớn. Giá bán buôn trung bình 18 loại rau quả đã giảm 1,3% so với tuần trước. Đậu cô ve (đậu que), cà tím, cà chua là những loại rau quả có mức giảm giá mạnh nhất với mức giảm lần lượt đạt 11,7%, 7,4% và 5,2%.

Trong tuần trước, thời điểm diễn ra dịp lễ Trung thu, nguồn cung và nhu cầu về các mặt hàng thủy sản tại thị trường trung Quốc đã tăng mạnh. Mức giá bán buôn trung bình 8 loại thủy sản đã tăng 1,6% so với tuần trước; trong đó, giá các loại cá nhỏ (hairtail), cá trắm cỏ, cá vược có mức tăng cao nhất với tỷ lệ tăng lần lượt đạt: 3,2%, 2,9% và 2%.

Nguyên liệu

Các loại nguyên liệu chính phục vụ việc sản xuất, bao gồm, các loại quặng, kim loại màu, năng lượng, cao su và nguyên liệu phục vụ hoạt động nông nghiệp đã giảm xuống. Giá các nguyên liệu dành cho công nghiệp nhẹ, nguyên liệu xây dựng được giữ ổn định và giá các loại sản phẩm hóa chất đã tăng lên.

Giá các loại quặng đã giảm 1,8%; trong đó, giá quặng wolfram (tungsten), quặng sắt, quặng đồng và quặng kẽm đã giảm lần lượt: 2,2%, 1,9%, 0,9% và 0,5%.

Giá các kim loại màu đã giảm 0,5%; trong đó, giá chì loại 1, đồng loại 1, thiếc loại 1 có mức giảm lần lượt: 2,4%, 0,5% và 0,5%; giá kẽm loại 1 được giữ ổn định. Giá niken loại 1 và giá nhôm A00 tăng lần lượt 0,4% và 0,1%.

Giá năng lượng đã giảm 0,4%; trong đó, giá than đá giảm 0,9%, giá than cốc được giữ ổn định và giá dầu thô tăng 0,1%.

Giá cao su đã giảm 0,4%; trong đó, giá cao su nội địa loại 1 và giá cao su xông khói nhập khẩu loại 3 đã giảm lần lượt 2,6% và 2,3%. Giá cao su butadiene, cao su polybutadiene và cao su styrene – butadiene đã tăng lần lượt 1,8%, 1,7% và 1,6%.

Giá thép tiếp tục giảm thêm 0,2% do các thương nhân giao dịch thép tại vùng đông bắc Trung Quốc đã giảm số lượng đơn đặt hàng. Giá thép dải cán nóng cỡ 145 x 2,5 mm, giá thép tấm cán nóng thông thường 3 mm và giá thép thanh vằn Φ 12 mm có mức giảm lần lượt: 0,4%, 0,3% và 0,2%.

Giá các loại nguyên liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp đã giảm 0,1%; trong đó, giá phân urê giảm 0,2% so với tuần trước.

Giá nguyên liệu dành cho công nghiệp nhẹ được giữ không đổi; trong đó giá sợi hóa học và sợi bông đã tăng 0,1%. Giá các loại sản phẩm hóa chất đã tăng 0,1%; trong đó giá methanol, methyl benzene (toluene), anhydrite phtalic và styrene đã tăng lần lượt: 1,6%, 1,2%, 0,6% và 0,5%.