Vẫn còn thụ động
Việt Nam đang tham
gia 17 FTA với các nước và khu vực; trong đó, có 9 hiệp định đã ký và
thực hiện, 3 hiệp định đã ký nhưng chưa thực hiện, 5 hiệp định vẫn đang
trong quá trình đàm phán.
Ngay khi các FTA này có hiệu lực, 85%
dòng thuế hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu sang các nước sẽ được cắt
giảm ngay lập tức về mức từ 0 - 5%. Các dòng thuế còn lại sẽ được giảm
theo lộ trình.
Theo Bộ Công Thương, nếu thuế suất trung bình
giữa các nước là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ 5 - 25%
thì thuế suất trung bình trong các cam kết FTA thấp hơn rất nhiều, chỉ
từ 0 - 5%.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Châu Âu tại Tổng Công ty Cổ phần May 10 (Garco 10). Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Tuy nhiên, để được hưởng mức ưu đãi thuế quan lý tưởng
của các FTA, cách duy nhất là hàng hóa phải đáp ứng được quy tắc xuất
xứ được thiết kế riêng cho mỗi FTA.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) chia sẻ, thời gian qua tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA mà Việt Nam đã tham gia chỉ đạt khoảng 35%.
Điều
này đồng nghĩa với việc 65% số hàng hóa còn lại phải chịu thuế cao hơn
so với mức thuế ưu đãi từ các FTA là 0 - 5%. Đây sẽ là một thách thức
rất lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Không những thế, mỗi FTA
đều có những quy định về xuất xứ hàng hóa riêng. Chẳng hạn như một
doanh nghiệp ô tô Việt Nam muốn được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu
sang các nước ASEAN, sản phẩm phải có 40% linh kiện có xuất xứ tại Việt
Nam.
Hoặc, với Hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) thì cho áp dụng quy định cộng gộp xuất xứ, cho phép các nhà xuất khẩu của Việt Nam được sử dụng vải từ một nước thứ 3 có ký kết FTA với Việt Nam và EU…
Ông Trần Thanh Hải cũng nhấn mạnh thêm, với các FTA cũ, tỷ lệ tận dụng còn thấp thì với các FTA mới với những điều khoản phức tạp và chặt hơn nhiều.
Vì thế, nếu không có các chương trình tập huấn kịp
thời và thường xuyên bản thân doanh nghiệp không chủ động cập nhật thông
tin và trang bị kiến thức thì việc cải thiện tỷ lệ tận dụng ưu đãi FTA,
nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ
không khả thi như kỳ vọng.
Thống kê cho thấy, số doanh nghiệp sử
dụng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan nhiều nhất là FTA Việt
Nam - Hàn Quốc (VKFTA), FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP)…
Cùng đó, những ngành
có tỷ lệ tận dụng cao gồm dệt may, da giày…cũng là những mặt hàng Việt
Nam có thế mạnh xuất khẩu đến nhiều thị trường với kim ngạch rất cao.
Đại
diện Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho hay, tốc độ tăng trưởng của kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU cũng như tỷ trọng hàng dệt may nhập
khẩu vào EU cũng còn thấp do đây là thị trường khó tính, số lượng đơn
hàng nhỏ.Chính vì thế, việc ký kết Hiệp định thương mại tự do
Á-Âu (EVFTA) đã tạo thêm điều kiện giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng
cạnh tranh vào thị trường này.
EVFTA: Xuất khẩu gỗ sang EU có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2020. Ảnh minh hoạ: TTXVN
Tuy nhiên, việc tận dụng các quy
tắc ưu đãi xuất xứ là không dễ dàng đối với ngành dệt may bởi các doanh
nghiệp trong ngành phải nhập tới 70% nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Trong đó, có tới 42% nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, còn lại là một số nước như Hàn Quốc, các nước ASEAN.
Nhận
định về vấn đề này, giới phân tích cho rằng: Nhiều doanh nghiệp đang tỏ
ý lo ngại tính phức tạp của các FTA, thậm chí chưa nắm rõ các tiêu chí
và điều kiện để được hưởng lợi. Do vậy, các doanh nghiệp cũng
cần chủ động đổi mới, sáng tạo, tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng
sản phẩm và xây dựng kế hoạch phù hợp nhằm nâng cao năng lực để đối phó
với thách thức.
Việc xây dựng kế hoạch đáp ứng các yêu cầu xuất xứ để tận dụng các ưu đãi FTA sẽ tăng năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu.
Hỗ trợ doanh nghiệp
Theo
bà Bùi Kim Thùy, Phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công
Thương), quy tắc xuất xứ được ví như “quốc tịch” của hàng hóa khi ra
nước ngoài. Vậy nên, một trong những điều kiện để doanh nghiệp
tận dụng được ưu đãi thuế quan là hàng hóa bắt buộc phải đáp ứng quy tắc
xuất xứ được thiết kế riêng cho từng FTA.
Cùng
đó, trước nhiều phản ánh từ phía doanh nghiệp về việc có những quy
tắc xuất xứ quá chặt chẽ như Việt Nam là nước nông nghiệp nên có thể
nhập nguyên liệu từ các nước khác để sản xuất hàng nông sản xuất khẩu.
Tuy nhiên, hiện nay, quá trình phối trộn gia công chưa được coi là tiêu
chí để xét cấp ưu đãi xuất xứ.
Do vậy, Bộ Công Thương cũng đang
sửa đổi Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về
xuất xứ hàng hóa để tạo nền tảng pháp lý tốt hơn về vấn đề quy tắc xuất
xứ cho doanh nghiệp thực hiện.
Ông Trần Thanh Hải cho biết thêm, cũng như các thủ tục hành chính
khác, việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa là một thủ tục hành
chính, đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra thời gian và chi phí làm thủ tục.
FTA và những lợi ích cho Hàn Quốc và Việt Nam. Ảnh minh họa: TTXVN
Hiện nay, Bộ Công Thương đã có nhiều cải cách trong cấp giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Điển hình như việc tham gia Cơ chế một cửa
quốc gia và một cửa ASEAN. 100% giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
của ASEAN đã được Bộ Công Thương đưa lên thành dịch vụ công trực tuyến
cấp độ 3 và sẽ đưa lên cấp độ 4 trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng ban hành các thông tư hướng dẫn, nhưng hiện nay doanh nghiệp chưa tham gia nhiều. Sở
dĩ vậy bởi doanh nghiệp chưa hiểu hết những lợi ích, hoặc có thể có các
vướng mắc quy định từ ASEAN và Bộ Công Thương đang tập trung tháo gỡ.
Theo ông Trần Thanh Hải, nếu ngay từ bây giờ doanh nghiệp hiểu rõ và áp dụng quy tắc xuất xứ thì mới có thể tận dụng được cơ hội từ thực hiện các FTA, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và phát triển bền vững./.