Giải pháp nâng cao tính độc lập xét xử của tòa án trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

NCS. ThS. LA THỊ QUẾ (Giảng viên Bộ môn Luật - Khoa Lý luận chính trị Luật - Đại học Hồng Đức)

TÓM TẮT:

Cộng đồng quốc tế thống nhất một nền tư pháp độc lập là nền tảng cho sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc gia và thế giới, bởi vì nền tư pháp độc lập là một quyền cơ bản của con người mà tất cả các thành viên của Liên Hợp quốc phải đảm bảo cho công dân của mình. Sự độc lập của tư pháp chính là điều kiện quan trọng đảm bảo cho liêm chính tư pháp. Chính vì vậy trong bài viết này, tác giả nghiên cứu và đề xuất về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao tính độc lập xét xử của Tòa án - nhánh quyền lực thực hiện quyền tư pháp.

Từ khóa: Độc lập xét xử, tòa án, pháp luật, nhà nước pháp quyền.

  1. Đặt vấn đề

Một trong những yêu cầu được đặt ra trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân là phải luôn đảm bảo tính khách quan, sự công minh của người “cầm cân nảy mực”. Để có thể đạt được tiêu chí này đòi hỏi trong hoạt động của mình, Tòa án phải có sự độc lập. Hiện nay, trước nhiệm vụ phát triển, bảo vệ đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn mới, cùng với cải cách nền hành chính, Đảng ta chủ trương ban hành và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tòa án trung tâm, xét xử làm trọng tâm và lấy tranh tụng làm khâu đột phá; trọng tâm của cải cách tư pháp hiện nay đó là bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án độc lập có hiệu lực trên thực tế. Do đó có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về các giải pháp nhằm tăng cường độc lập xét xử của Tòa án là một nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Chính sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp như nội dung Hiến pháp 2013 tại khoản 1 Điều 102 đã chỉ rõ: “ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

  1. Nội dung nghiên cứu

2.1. Thực trạng của việc bảo đảm tính độc lập xét xử của Tòa án ở Việt Nam

Tòa án được xem là một thiết chế hữu hiệu trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và các lợi ích của quốc gia. Yêu cầu đặt ra và làm cơ sở để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Muốn vậy, một trong những điều kiện đặt ra đó là phải bảo đảm tính độc lập xét xử của Tòa án. Đây là một nguyên tắc hoạt động đặc thù của Tòa án được ghi nhận trong Hiến pháp. Thực tiễn hiện nay cho thấy với việc bảo đảm tính độc lập xét xử của Tòa án, nhiều vụ án lớn đã được đưa ra xét xử, như: vụ án siêu lừa Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt hơn 4.000 tỷ đồng của Vietinbank, đầu năm 2015 phiên xét xử phúc thẩm khép lại với mức án chung thân dành cho siêu lừa này. Tiếp đến là vụ án vào tháng 7/2015, Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam Nguyễn Xuân Sơn, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vì liên quan đến sai phạm tại OceanBank, khiến PVN mất trắng 800 tỷ đồng… Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được có thể thấy rằng, cơ sở bảo đảm tính độc lập của Tòa án hiện nay vẫn chưa được tôn trọng và tuân thủ. Thực tế cho thấy nguyên nhân của phán quyết sai phạm dẫn tới hậu quả nêu trên là do chính từ những hạn chế của các yếu tố tác động đến việc bảo đảm tính độc lập của Tòa án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể:

Thứ nhất, về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử.

Về phương thức lãnh đạo của Đảng trong công tác xét xử nói riêng và lĩnh vực tư pháp nói chung, thời gian qua được thực hiện chủ yếu bằng Nghị quyết, Chỉ thị với phương châm định hướng công tác, giáo dục thuyết phục là chủ yếu nên bộc lộ nhiều hạn chế ở tính chung, thiếu cụ thể; tính bắt buộc, phục tùng trong khâu tổ chức. Bên cạnh đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử hiện nay chưa được quy định rõ ràng và cụ thể, dẫn đến việc nhiều tổ chức Đảng hoặc cấp ủy Đảng đã và đang lãnh đạo “trực tiếp và toàn diện” hoạt động của Tòa án và can thiệp vào việc giải quyết một số vụ án có thể làm ảnh hưởng đến độc lập xét xử, như: vụ tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn, vụ án Nông trường ở sông Hậu... Ngoài ra, một số vấn đề đặt ra hiện nay đó là về phạm vi lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án hiện nay mới chỉ dừng lại ở các vụ án hình sự, trong khi đó còn nhiều vụ án dân sự, kinh tế, hành chính chưa có cơ chế cụ thể để Tòa án phải báo cáo cấp ủy Đảng phải có ý kiến chỉ đạo trong quá trình xử lí cụ thể.

Thứ hai, về công tác quản  lí ngân sách tòa án.

Trên thực tế hiện nay, TAND tối cao thông qua Vụ Kế hoạch - Tài chính tự dự thảo ngân sách cho tòa án mình cũng như tòa địa phương. Quá trình dự thảo ngân sách này là công việc nội bộ của TAND tối cao và thông qua sự trao đổi giữa TAND tối cao và từng tòa địa phương. Sau đó, TAND tối cao sẽ tổng hợp lại rồi gửi sang Văn phòng Chính phủ và Bộ Tài chính để cơ quan này nhập phần ngân sách này cho vào ngân sách trung ương để Chính phủ trình Quốc hội. Như vậy theo quy định, TAND tối cao không trực tiếp trình sự thảo ngân sách lên Quốc hội phê duyệt mà phải “đề nghị” Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn. Cơ chế này đem lại cho các cơ quan hành chính những ảnh hưởng nhất định đến hệ thống Tòa án. Mặt khác, cơ chế lập và phân bổ ngân sách cho các cấp Tòa án hiện nay đang được thực hiện theo hướng từ trên xuống và dựa vào các tiêu chí áp dụng chung cho các cơ quan hành chính nhà nước khác, mà chưa tính đến đặc thù của hoạt động xét xử và điều kiện cụ thể của từng địa phương. Điều này dẫn đến việc ngân sách cho hoạt động xét xử chưa được bảo đảm ở mức Tòa án có thể hoàn toàn an tâm và độc lập thực hiện quyền tư pháp.

Thứ ba, về vấn đề con người.

Hoạt động xét xử đòi hỏi người thẩm phán phải có tính chuyên môn cao, đòi hỏi sự cẩn trọng, trách nhiệm nặng nề; do đó thẩm phán cần được lựa chọn kỹ lưỡng, cần thận, bảo đảm năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên có thể thấy quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán theo pháp luật khá khắt khe. Ngoài ra, nhiệm kì của thẩm phán ngắn, cộng với việc tái bổ nhiệm gắn với tỉ lệ án sửa và án hủy là những yếu tố mà các thẩm phán không dám chủ động hay độc lập khi xét xử. Bên cạnh đó, mức lương của thẩm phán hiện nay thấp sẽ tạo nên áp lực về thu nhập cho thẩm phán và thúc đẩy tình trạng tham nhũng.

Thứ tư, về cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử.

Có thể thấy rằng, cơ quan dân cử, mà đại diện cao nhất là Quốc hội trong quá trình thực hiện giám sát đối với công tác xét xử đã tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy hiện nay là giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử còn những hạn chế nhất định: Một số nội dung quan trọng như giám sát việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa được làm nhiều và thường xuyên; pháp luật về giám sát chưa quy định phạm vi thẩm quyền, hiệu quả pháp lí đối với giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể để làm rõ trách nhiệm của Tòa án; Việc chất vấn Chánh án TAND cũng chưa rõ ràng và có hiệu quả khi các đại biểu thường tập trung vào những vụ án cụ thể, mà với các vụ việc này thì Chánh án khó nhớ và có thể trả lời ngay, vì trong hoạt động tư pháp tính độc lập cá nhân tố tụng rất được đề cao.

2.2. Giải pháp nâng cao tính độc lập xét xử của tòa án trong Nhà nước pháp quyền

Đảm bảo tính độc lập của tòa án khi xét xử là vấn đề mang tính nguyên tắc, là cơ sở nền tảng thực hiện các yêu cầu về sự công minh, dân chủ, hiệu lực, hiệu quả. Để đảm bảo nguyên tắc này, theo tác giả cần thực hiện một loạt biện pháp, từ tổ chức, cán bộ đến cơ sở vật chất kỹ thuật, từ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đến xây dựng và hoàn thiện các thể chế về xét xử. Dưới đây là một số vấn đề cụ thể:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử.

+ Về mặt quan điểm, cần khẳng định rõ công tác xét xử phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; việc xét xử không được xa rời chủ trương, đường lối của Đảng. Song vấn đề đặt ra hiện nay đó là đồng thời phải kiên quyết loại bỏ tình trạng cấp ủy Đảng hoặc cán bộ Đảng can thiệp hoặc làm thay chuyên môn của tòa án hoặc thẩm phán. Vì vậy, điều cần thiết đó phải ban hành được một Quy định về lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác xét xử; Đảng quy định cụ thể hóa các loại vụ án Tòa án cần phải báo cáo tổ chức Đảng theo nguyên tắc tổ chức Đảng chỉ cho ý kiến về các nhiệm vụ chính trị cần phải thực hiện trong thời điểm xét xử các vụ án đó. Thông qua đó, Tòa án góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của đất nước, trên tinh thần pháp luật được thực thi và công lí được bảo đảm.

+ Đảng giám sát về mặt tổ chức và công tác cán bộ. Giám sát tính chịu trách nhiệm và giải trình về hoạt động xét xử của Tòa án, thẩm phán để bảo đảm đội ngũ thẩm phán là những người có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức cần thiết xứng đáng là những người “cầm cân nảy mực” và duy trì công lí. Việc giám sát này cần phải quán triệt dựa trên nguyên tắc và mục tiêu là để bảo đảm hoạt động xét xử được thực hiện một cách độc lập, vô tư, khách quan, đúng pháp luật, trong sạch, hiệu quả.

Thứ hai, thay đổi cơ chế lập và tiêu chí phân bổ ngân sách cho hoạt động xét xử.

Để Tòa án có khả năng độc lập thực hiện chức năng tư pháp thì Tòa án phải có đầy đủ ngân sách cần có. Nếu không, Tòa án sẽ không có đủ nguồn lực để bảo đảm thực hiện quyền năng tư pháp một cách hiệu quả, chứ chưa nói đến một cách độc lập:

+ Trao quyền cho mỗi Tòa án tự dự toán ngân sách hàng năm, căn cứ vào nhu cầu của mình và dựa vào những tiêu chí đã được xác định. Đề xuất này sẽ tạo cho mỗi Tòa án quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về dự toán ngân sách cho hoạt động của mình nói riêng và Tòa án tối cao có quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về dự toán ngân sách của toàn ngành Tòa án nói chung.

+ Tiêu chí phê duyệt ngân sách cho hoạt động xét xử cần phải được nghiên cứu và quy định khác so với các tiêu chí chung về phân bổ ngân sách hiện nay (tính trên đầu biên chế). Hoạt động xét xử là hoạt động đặc thù, do đó, cần nghiên cứu đề xuất dựa trên các tiêu chí, như: số vụ án xét xử, đầu biên chế, mức độ chi phí ở mỗi địa phương,… Đề xuất này sẽ bảo đảm việc phân bổ ngân sách một cách khách quan, dựa trên nhu cầu và mục tiêu thực sự chứ không mang tính dàn trải, bình quân.

Đề xuất này cũng phù hợp với xu hướng cải cách tư pháp nhiều quốc gia đang tiến hành trong thời gian qua. Ví dụ: Hiến pháp Costa Rica quy định rõ ngân sách Tòa án được dựa trên tỷ lệ nhất định của tổng ngân sách quốc gia, Argentina đã tăng hơn 50% ngân sách dành cho hoạt động xét xử trong vòng 6 năm, Chile cũng đã quyết định tăng gấp đôi ngân sách cho Tòa án ngay sau khi có được sự cam kết chính trị về cải cách tư pháp [5,tr.121].

Thứ ba, giải pháp về mặt con người.

Quyền lực tư pháp mặc dù được tổ chức hợp lí nhưng nếu thiếu đi người thực hiện quyền lực đó một cách độc lập, khách quan và vô tư thì sự hợp lí này không còn ý nghĩa. Vì vậy điều quan trọng đó là cần phải có những cơ chế đảm bảo tính độc lập, khách quan và vô tư của thẩm phán và hội thẩm nhân dân:

+ Theo quy định hiện hành, thẩm phán được coi là công chức nhà nước như các công chức trong hệ thống cơ quan hành pháp. Điều đó khiến cho vị thế của thẩm phán chưa cao và chưa xứng đáng với vị trí đặc biệt. Vì vậy, nên sửa đổi quy định không coi thẩm phán là công chức nhà nước, mà cần phải coi thẩm phán là một ngạch quan chức tư pháp riêng. Giải pháp này sẽ tạo được vị thế riêng và cao quý của thẩm phán.

+ Việc tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán phải thật sự công khai, minh bạch, cạnh tranh và ngặt nghèo. Quy định này tạo ra sự nhận thức mới để trở thành thẩm phán là việc rất khó khăn và điều này tạo cho công chức vào niềm tin của hệ thống tư pháp. Về đổi mới cơ chế tuyển chọn thẩm phán cần mở rộng nguồn để tuyển chọn. Để có được những thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ Toà án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán nhưng chưa làm thẩm phán. Để được làm thẩm phán, các ứng viên cần trải qua một kỳ thi quốc gia nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa họ cho chức danh này. Vì vậy, cần nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển thẩm phán ở từng cấp Tòa án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia.

+ Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ thẩm phán so với hiện nay, tiến tới chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, bởi vì quy định nhiệm kỳ thẩm phán quá ngắn (5 năm) cùng với cơ chế xét tuyển như hiện nay dễ dẫn đến tình trạng thẩm phán chịu sức ép tâm lý trong suốt nhiệm kỳ, có thể không thực sự yên tâm.

+ Hiện nay, thực tế cho thấy, việc tham  gia xét xử của hội thẩm nhân dân vẫn còn mang nặng tính hình thức và chịu ảnh hưởng của thẩm phán. Vì vậy, cần phải xác định lại rõ phạm vi thẩm quyền của hội thẩm nhân dân trong việc đưa ra quyết định về tình tiết vụ án. Có như vậy, việc tham gia của hội thẩm nhân dân mới thực sự chủ động và không lệ thuộc vào hướng dẫn, chỉ dẫn của thẩm phán. Điều đó sẽ đảm bảo hơn sự độc lập xét xử của hội thẩm nhân dân nói riêng và tòa án nói chung.

 Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử.

Một trong những nhiệm vụ Nghị quyết số 49NQ/TW đề ra là: “Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp”. [4]. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử: Cần đổi mới phương thức, nội dung và phạm vi giám sát của Quốc hội theo hướng Quốc hội thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của Tòa án nhưng không làm thay đổi công việc xem xét, kết luận về việc xét xử các vụ án cụ thể của vụ án; không can thiệp, kết luận việc xét xử sai đúng của tòa án, cũng không kiến nghị về tội danh hay mức án cụ thể. Qua đó, nhằm đảm bảo pháp chế XHCN, bảo đảm hoạt động Tòa án đúng các quy định pháp luật; Việc giám sát của cơ quan dân cử cần tập trung thực hiện theo hình thức giám sát theo chuyên đề, theo vấn đề liên quan đến công tác xét xử như chuyên đề án treo hay vấn đề tham nhũng… nhằm mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện cho Tòa án thực hiện tốt các chức năng.

  1. Kết luận

Độc lập xét xử là yếu tố không thể thiếu được trong một Nhà nước pháp quyền và có vai trò đặc biệt trong việc bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và luật, cân bằng và kiểm soát quyền lực nhà nước và bảo đảm quyền con người. Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định và cốt lõi của quyền lực tư pháp nhằm bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền. Độc lập xét xử còn là nhu cầu đòi hỏi của xã hội và dân chúng để tăng cường tiếp cận công lí của người dân và bảo đảm quyền công dân và quyền con người. Chính vì tầm quan trọng của độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền hiện nay, tác giả đã đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm độc lập xét xử là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Nghị quyết Trung ương số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020.
  2. PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa (2008), Cơ quan Tư pháp trong một nhà nước đang chuyển đổi: Góp một cách nhin nhận và kiến nghị cải cách, bài trình bày của Hội thảo quốc tế về Độc lập xét xử do Viện Nhà nước và pháp luật tổ chức năm 2008.
  3. GS.TS. Nguyễn Duy Quý (1992), “Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản.
  4. http://baophapluat.vn/su-kien/to-chuc-toa-an-khong-theo-don-vi-hanh-chinh-bao-dam-hon-tinh-doc-lap-186091.html.
  5. Margaret Popkin, Efforts to Enhance Judicial Independence in Latin America: A Comparative Perspective. Solutions to enhance the judicial independence

SOLUTIONS TO ENHANCE THE JUDICIAL INDEPENDENCE OF COURTS IN VIETNAM

Ph.D student, Master. La Thi Que

Lecturer, Department of Law, Department of Political Theory and Law Hong Duc University

ABSTRACT:

The international community agrees that the judicial independence is the foundation for the prosperity of the world in general and the nation in particular as the judicial independence is a fundamental human right which all members of the United Nations must ensure it for their citizens. The independence of judiciary is a prerequisite for maintaining the judicial integrity. This paper focuses on studying and proposing particular solutions to enhance the judicial independence of courts in Vietnam.

Keywords: Judicial independence, court, legal system, the law governed state.