Hai câu hỏi từ cơn mưa lũ lịch sử miền Trung

Hồ thủy điện có gây ra lụt lội không? PGS.TS Vũ Thanh Ca, người từng 6 năm giảng dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản, khẳng định dứt khoát: “Tất nhiên là không!”.

Đợt mưa lũ lịch sử tháng 10 vừa qua gây thiệt hại to lớn về người và của. Trước những mất mát đó, chúng ta đều có ý thức truy nguyên nhân, tìm lời giải để lên phương án ứng phó sau này.

Câu truy vấn đầu tiên hướng vào chuyện vì sao những ngày qua mưa lũ lại dồn dập đổ vào miền Trung?

GS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, cho rằng, Việt Nam là 1 trong 6 nước trên thế giới chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu 4 năm gần đây. Miền Trung lại là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất tại Việt Nam.

Bên cạnh đó còn có yếu tố địa hình phức tạp. Suốt dải đất miền Trung vừa có vùng ven biển, lại có đồng bằng, trung du, đồi núi trọc rồi núi cao và dốc đứng…

Khi bàn về nguyên nhân sạt lở thủy điện Rào Trăng 3, TS Trịnh Xuân Hòa, Phó viện trưởng Viện Khoa học địa chất và khoáng sản, dẫn số liệu từ cuộc điều tra trước đây tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế (nơi có thủy điện Rào Trăng 3) cho thấy, Phong Điền có 40/42 điểm trượt xảy ra tại taluy.

Nguyên nhân nội tại hàng đầu gây trượt lở ở khu vực Thủy điện Rào Trăng 3 là các hệ thống đứt gãy phát triển rất mạnh với nhiều phương giao cắt nhau, làm cho khu vực này xuất hiện các đới dập vỡ quy mô rộng.

Nguyên nhân trực tiếp là mưa lũ dồn dập trong thời gian ngắn. Đợt mưa từ ngày 5 đến 12 tháng 10 tại Thừa Thiên Huế lên đến 1.300-2.000 mm. Trong khi, theo thống kê cả thời kỳ mưa chính vụ tại Thừa Thiên Huế đạt từ 2.009 đến 2.127mm.

Điều đó cho thấy đợt mưa, lũ vừa rồi rất lớn chỉ trong hơn 1 tuần đã đạt xấp xỉ lượng mưa của cả mùa. Và đã gây ngập úng nhiều khu vực tại các tỉnh miền Trung, cũng như các công trình hạ tầng trong khu vực, trong đó có Thủy điện Rào Trăng 3.

Câu hỏi thứ 2 là liệu các hồ thủy điện có “góp phần” làm cho lũ mạnh thêm?

PGS.TS Vũ Thanh Ca, giảng viên Trường ĐH Tài nguyên và môi trường Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu biển và hải đảo, khẳng định, không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện, lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, không có hồ thủy điện, lũ cao hơn rất nhiều.

Thủy điện ở miền Trung thuộc loại vừa và nhỏ. Loại vừa, có công suất từ 30 MW trở lên thường bố trí trên dòng chính con sông, có tác dụng cắt, giảm lũ, bổ sung dòng chảy về mùa cạn cho hạ du.

Thủy điện là một dạng hồ chứa dùng để điều tiết nước kết hợp với phát điện. Khi mưa lũ, thủy điện có nhiệm vụ tích nước, lượng nước nó tích chính là lượng lũ giảm đi nhờ hồ thủy điện.

Nếu mưa lũ tiếp tục, đến một ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả, hồ thủy điện bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ sẽ xả nước với lưu lượng lớn hơn, nhưng nguyên tắc bất di bất dịch là lượng nước xả không vượt quá mức nước lũ về hồ thủy điện.

Nếu không có hồ thủy điện, thì toàn bộ lượng nước trong mưa lũ đã tràn xuống khu dân cư từ trước khi nó xả.

Trên thực tế, trong đợt mưa lũ miền Trung vừa qua, lưu lượng về các hồ thủy điện tăng rất nhanh. Tuy nhiên, các hồ thủy điện đã phối hợp vận hành an toàn, tuân thủ quy định tại quy trình vận hành liên hồ, hoàn toàn không gây tác động bất lợi cho hạ du.

Đặc biệt, một số hồ thủy điện đã phát huy tác dụng cắt, giảm lũ cho hạ du với tổng lưu lượng xả qua công trình trên lưu lượng đỉnh lũ về hồ như sau: hồ Quảng Trị là 1.130/1.426 m3/s; hồ Hương Điền là 2.500/4.552 m3/s; hồ Bình Điền là 1.873/3.248 m3/s; hồ Sông Bung 4 là 1.873/3.248 m3/s; hồ Đăk Mi 4 là 796/3.149.5 m3/s; hồ Sông Tranh 2 là 1.501/1.884,8 m3/s.

Đối với thủy điện nhỏ, chủ yếu nằm trên các nhánh sông, suối nhánh, khai thác độ chênh cao địa hình tự nhiên để phát điện.

Các dự án thủy điện này có lưu lượng thấp (diện tích lưu vực nhỏ), hồ chứa bé (ít chiếm dụng đất đai) nên tác dụng cắt giảm lũ không đáng kể và cơ bản không làm thay đổi chế độ dòng chảy ở hạ lưu.

Năm 2012, Bộ Công Thương ban hành Thông tư 43, trong đó quy định các dự án được đưa vào quy hoạch phải đảm bảo bình quân 1 MW không chiếm dụng quá 10 ha đất đai các loại và không di dời quá 1 hộ dân.

Theo thống kê, nếu các diện tích chiếm đất trước đây bình quân khoảng 4-5 ha trên mỗi MW công suất  thì từ năm 2016 đến nay chỉ còn khoảng 1-2 ha trên 1 MW công suất.

Thực hiện Nghị quyết số 62 của Quốc hội và Nghị quyết số 11 của Chính phủ, Bộ Công Thương đã rà soát về quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành khai thác các công trình thủy điện trên địa bàn cả nước.

Theo đó, đã loại khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện bậc thang, 472 dự án thủy điện nhỏ và 213 vị trí tiềm năng thủy điện. Đây là các dự án chiếm dụng nhiều đất đai, ảnh hưởng lớn đến môi trường - xã hội hoặc hiệu quả kinh tế thấp.

Từ 2016 đến nay tất cả dự án thuỷ điện nhỏ liên quan đến rừng tự nhiên đã không còn dự án nào được bổ sung vào quy hoạch và đối với các dự án được bổ sung quy hoạch đều được kiểm soát chặt chẽ các vấn đề liên quan đến đất, rừng.

Từ năm 2017 đến nay Bộ Công Thương cũng đã chỉ đạo các địa phương không bổ sung dự án dưới 3 MW vào quy hoạch.

Thực hiện Chỉ thị số 13 năm 2017 của Ban Bí thư và chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị về các giải pháp khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên, Bộ Công Thương phối hợp với UBND các tỉnh rà soát, đánh giá toàn diện các dự án thủy điện. Vì vậy, thời gian qua Bộ Công Thương không xem xét bổ sung bất cứ dự án thủy điện nào có chiếm diện tích đất rừng tự nhiên.

Quay lại câu chuyện hồ thủy điện có gây ra lụt lội không? PGS.TS Vũ Thanh Ca, người từng 6 năm giảng dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản, khẳng định dứt khoát: “Tất nhiên là không!”.

 

Thuận Thành