Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, dễ nhận ra, thì việc xây dựng và phát triển KCN mạnh mẽ trong thời gian qua, đã gây ra một loạt các vấn đề về nước thải, khí thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại.
Qua thanh tra, kiểm tra các KCN, có thể nhận thấy, các vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây gồm: Chưa phân tách hệ thống thoát nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp; Chưa thực hiện đúng các quy định về thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, hệ thống phòng ngừa và ứng cứu sự cố môi trường KCN; Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết BVMT; Chưa có báo cáo giám sát môi trường định kỳ. Chưa xây dựng và thực hiện đúng nội dung về đầu tư xử lý nước thải, khí thải như đã cam kết; Xả nước không phép và nước thải thải chưa xử lý ra môi trường.
Về nước thải: Sự ra đời các KCN dẫn tới việc tiêu thụ và xả thải một lượng nước rất lớn ra môi trường. Theo tính toán, KCN có quy mô từ 100 - 400 ha sẽ có lượng nước thải công nghiệp từ 3.000 -10.000 m3/ngày đêm; Đến cuối năm 2008, mới có 60 nhà máy xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động. Hiện nay, nhiều KCN vẫn chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung. Thậm chí, tuy đã có nhà máy xử lý nước thải tập trung, nhưng nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, không đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung mà xả thẳng ra môi trường. Nhiều KCN chưa có hệ thống riêng thu gom nước thải công nghiệp và nước mưa chảy tràn; hoặc có hệ thống riêng nhưng không đảm bảo; Các KCN đang hoạt động mỗi ngày xả ra môi trường 225.000m3 nước thải công nghiệp, trong đó chỉ 30% được xử lý. Nhiều chỉ tiêu trong nước thải một số vượt quy chuẩn Việt Nam nhiều lần (Thông số BOD, COD, NO2, NO3, NH4, kim loại nặng, phenol, coliform…); Nhiều doanh nghiệp chưa có giấy phép xả nước thải. Các KCN đều nằm trong các lưu vực sông chính và là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các lưu vực sông Đồng Nai - Sài gòn; Sông Nhuệ - Đáy và Sông Cầu, gây nhiều hậu quả xấu về mặt kinh tế, xã hội và môi trường cho người dân sống tại các lưu vực sông này.
Về khí thải: Khí thải phát sinh trong quá trình hoạt động của các nhà máy trong các KCN rất đa dạng, tuỳ theo đặc điểm ngành nghề sản xuất. Khí thải do đốt nhiên liệu: Đa số các nhà máy trong các KCN đều sử dụng các loại nhiên liệu (dầu FO, DO, gas; than) để cấp nhiệt cho quá trình sản xuất. Khi bị đốt cháy, các nhiên liệu này sẽ sinh ra một hỗn hợp các khí NOx, SOx, COx,... và muội khói, gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh; Khí thải phát sinh ngay trên dây chuyền công nghệ sản xuất: các dạng khí thải này rất khác nhau, điển hình nhất là các dạng khí, bụi, hơi axit, hơi dung môi, hóa chất, nguyên liệu. Ngoài ra, khí thải từ các phương tiện giao thông trong quá trình xây dựng và hoạt động của KCN cũng gây ra ô nhiễm bụi rất cao.
Về chất thải rắn: Chất thải rắn của KCN bao gồm chất thải công nghiệp, bùn thải (từ khâu xử lý nước thải) và rác thải sinh hoạt. Mỗi ngày, các KCN trên cả nước thải ra khoảng 30 ngàn tấn chất thải công nghiệp. Biện pháp chủ yếu để xử lý lượng chất thải này là thuê các công ty môi trường đô thị vận chuyển và xử lý (chủ yếu là chôn lấp lẫn với chất thải sinh hoạt). Tuy nhiên, vẫn còn có hiện tượng bán chất thải trái phép cho các công ty, cơ sở tái chế và tiêu hủy chất thải không có giấy phép, thiếu đầu tư xây dựng khu tập kết rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp đúng quy cách, chưa phân loại chất thải tại nguồn và toàn quốc vẫn chưa có bãi chôn lấp chất thải công nghiệp đúng qui cách được xây dựng.
Về chất thải nguy hại: Lượng phát sinh chất thải nguy hại (CTNH) trong các khu công nghiệp chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cả nước; CTNH trong các KCN có cả ở dạng rắn, dạng lỏng, bùn thải... Nhiều cơ sở trong KCN chưa đăng ký chủ nguồn thải CTNH hoặc quản lý CTNH không đúng quy định; Có rất ít các cơ sở, đơn vị có chức năng và năng lực xử lý chất thải nguy hại; Đến hết tháng 3, Tổng cục Môi trường đã cấp 24 giấy phép hành nghề xử lý, tiêu huỷ CTNH cho các tổ chức, cá nhân (trong đó miền Bắc: 9, miền Trung: 1 và miền Nam 14) và 40 giấy phép hành nghề vận chuyển CTNH (trong đó miền Bắc: 18, miền Trung: 2 và miền Nam: 20). Theo kết quả thanh tra, kiểm tra tại một số cơ sở sản xuất nằm trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài gòn cho thấy: 82/101 cơ sở, KCN và CCN có phát sinh CTNH, nhưng chỉ có 10/82 đơn vị quản lý và xử lý đúng quy định, chiếm 12,2 %. Trong các đơn vị có phát sinh CTNH, chỉ có 35,8% thực hiện việc kê khai, đăng ký chủ nguồn thải.
Quản lý môi trường KCN
Để đảm bảo việc quản lý môi trường trong các KCN thống nhất và hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan mà quan trọng nhất là: Luật Bảo vệ môi trường năm 2005; Nghị định 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường; Chỉ thị 29 - CT/TW ngày 21/1/2009 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”: Không đưa vào vận hành, sử dụng các KCN, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường; Nghị định số 29/2008/NĐ - CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và Khu kinh tế. Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về Danh mục chất thải nguy hại; Thông tư số 12/2006/TT - BTNMT hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại; và dự kiến ban hành Quy chế Bảo vệ môi trường KCN, KCX, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp trong năm 2009.
Quản lý môi trường KCN trực tiếp do Sở TNMT và BQL các KCN phối hợp thực hiện; Quản lý môi trường bao gồm: xem xét các vấn đề môi trường trong khâu quy hoạch phát triển KCN; Thẩm định các hệ thống cơ sở hạ tầng môi trường trong KCN; Kiểm tra, thanh tra môi trường tại các nhà máy trong KCN; Quan trắc môi trường bên ngoài hàng rào các KCN; Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và xử phạt hành chính về môi trường…; Tuy nhiên, công tác quản lý còn nhiều hạn chế do thiếu cán bộ chuyên môn về môi trường, thiếu trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường trong các KCN. Đặc biệt, sự phân cấp quản lý môi trường giữa Ủy ban nhân dân, Sở TNMT và BQL KCN tại một số tỉnh/thành vẫn chưa rõ ràng và theo đúng Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ, quy định về KCN, KCX và Khu kinh tế.
Một số giải pháp xây dựng các KCN thân thiện môi trường ở VN
• Các mô hình KCN:
Hiện đang có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nghiên cứu xây dựng mô hình KCN, thậm chí có những quan niệm không đồng nhất với nhau về KCN. KCN là cấu trúc kinh tế khá phức tạp, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, quản lý KCN, có thể tiếp cận phân loại thành các mô hình KCN khác nhau. Để phục vụ cho việc phát triển các KCN gắn liền với bảo vệ môi trường có thể phân chia thành 3 mô hình KCN như sau:
- Mô hình KCN truyền thống: Các nhà máy, xí nghiệp chung một mục đích là sản xuất, gia công tạo thành sản phẩm hàng hoá, tối đa hóa lợi nhuận, ít chú ý đến môi trường và cùng chung sự quản lý gọi là KCN; Khu công nghiệp truyền thống thường được xây dựng tại thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa.
- Mô hình KCN thân thiện với môi trường: Các KCN lấy mục tiêu môi trường là định hướng phát triển. Đó là: không gây ô nhiễm môi trường xung quanh, không ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng; giảm đến mức thấp nhất phát sinh chất thải; bảo tồn tài nguyên thiên nhiên bằng các giải pháp tối ưu hoá dòng vật chất và năng lượng trong từng cơ sở sản xuất và trong KCN; Mô hình KCN thân thiện với môi trường rất phù hợp cho các nước đang phát triển với nguồn lực tài chính và trình độ sản xuất ở mức trung bình.
- Mô hình KCN sinh thái: Sản xuất công nghiệp diễn ra có tính hệ thống (khép kín). Các cơ sở sản xuất trở thành những điểm sinh thái công nghiệp, có mối quan hệ cộng sinh với nhau dựa trên nguyên tắc trao đổi chất, chu trình sản xuất khép kín, đảm bảo tuần hoàn năng lượng và vật chất ở mức độ tối đa. Đây là mô hình KCN được các nước phát triển có nền kinh tế và công nghệ tiến tiến áp dụng như Đức, Italia, Anh, Mỹ, Đan Mạch (KCN Kalundborg).
• Một số giải pháp:
Xây dựng mô hình KCN thân thiện với môi trường cần phải có sự hưởng ứng và tham gia tích cực từ chính quyền, BQL KCN, chủ đầu tư hạ tầng và các doanh nghiệp sản xuất và người dân sống quanh KCN.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, củng cố và kiện toàn hệ thống quản lý và bảo vệ môi trường KCN, phân cấp trách nhiệm rõ ràng giữa UBND, Sở TNMT và BQL KCN. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế cũng như các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp sản xuất trong KCN, lồng ghép vấn đề quy hoạch KCN với quy hoạch môi trường (quy định tỉ lệ diện tích cây xanh hợp lý, quy hoạch hệ thống thoát nước mưa, nước thải...); Có chính sách hỗ trợ về vốn, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, giảm tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường.
- Đối với các doanh nghiệp cần: Áp dụng công nghệ sạch, ít tiêu thụ năng lượng, ít chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải tối đa; áp dụng ISO 14.000 cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất; xử lý nước thải cục bộ và đấu nối hệ thống nước thải vào khu xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp.
- Đối với người dân: Cần tích cực và yêu cầu BQL các KCN cho phép tham gia, giám sát việc xử lý và xả chất thải ra môi trường.
- Đối với chủ đầu tư và quản lý hạ tầng các khu công nghiệp: Thực hiện đúng theo quy hoạch các KCN với các yêu cầu về hạ tầng môi trường; Không thu nhận các nhà đầu tư thứ cấp có công nghệ sản xuất lạc hậu; Xây dựng khu xử lý nước thải tập trung (theo dạng modul phù hợp với từng giai đoạn lấp đầy KCN và các nhóm ngành nghề); xử lý 100% nước thải, khí thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại, trước khi thải ra môi trường; Quan trắc môi trường, giám sát việc tuân thủ quản lý và bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp theo đúng luật pháp hiện hành; báo cáo thường xuyên với các cơ quan quản lý về hiện trạng môi trường KCN cũng như các vấn đề môi trường phát sinh kịp thời.