Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2025: Ba trọng tâm và Sáu giải pháp để bảo tồn đa dạng sinh học

Ngày 22/5/2025 tại tại Vườn quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức tổ chức Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2025.

Với chủ đề “Sống hài hòa với thiên nhiên và phát triển bền vững” (Harmony with nature and sustainable development), Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2025 có sự tham gia của hơn 200 đại biểu là đại diện Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, đại diện các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các Tổ chức quốc tế, Ban quản lý các Vườn quốc gia, Khu bảo tồn, Khu dự trữ sinh quyển, các Vườn di sản ASEAN, khu Ramsar, chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng địa phương sống gần Vườn quốc gia Cúc Phương.

Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2025 được Liên hợp quốc phát động với Chủ đề “Sống hài hòa với thiên nhiên và phát triển bền vững” nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa đa dạng sinh học và phúc lợi của con người,

Sự kiện nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng, kêu gọi cam kết và quyết tâm của các bên liên quan để triển khai các mục tiêu của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (Global Biodiversity Framework - GBF) được Công ước Đa dạng sinh học (CBD) thông qua năm 2022 và Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (NBSAP).

Nguyên nhân chủ yếu đe doạ đa dạng sinh học là các hoạt động của con người, khoảng 45.300 loài động vật và thực vật đứng trước nguy cơ bị xóa sổ

          

Ngày Quốc tế Đa dạng Sinh học (International Day for Biological Diversity), được tổ chức vào ngày 22 tháng 5 hàng năm, là dịp để nâng cao nhận thức cộng đồng toàn cầu về tầm quan trọng của đa dạng sinh học và vai trò thiết yếu của đa dạng sinh học đối với sự sống trên Trái Đất. Chủ đề của Ngày quốc tế đa dạng sinh học hàng năm được lựa chọn nhằm thu hút sự quan tâm, truyền cảm hứng và kêu gọi hành động trên toàn cầu đối với các vấn đề của đa dạng sinh học.

          

Năm 2025, Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học được Liên hợp quốc phát động với Chủ đề “Sống hài hòa với thiên nhiên và phát triển bền vững” nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa đa dạng sinh học và phúc lợi của con người, lan tỏa thông điệp: Thiên nhiên và đa dạng sinh học là nền tảng của mọi sự sống và cơ sở cho sự phát triển bền vững của con người trên trái đất. Bảo tồn đa dạng sinh học đồng nghĩa với bảo vệ tương lai của nhân loại đồng thời khẳng định rằng việc đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) phụ thuộc vào một thế giới tự nhiên khỏe mạnh và phát triển thịnh vượng. Khẩu hiệu này đã nêu bật tầm quan trọng của việc bảo vệ và phục hồi thiên nhiên, đồng thời đảm bảo tiến bộ về kinh tế, xã hội và môi trường.

Tuy nhiên, thiên nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục xu hướng suy giảm nghiêm trọng. Cụ thể Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới đánh giá: khoảng 45.300 loài động vật và thực vật trên thế giới đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ. Nguyên nhân chủ yếu đe doạ đa dạng sinh học trên thế giới là các hoạt động của con người, như: phá hủy môi trường sống, khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái tự nhiên. Trước thực trạng đó, năm 2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đồng thuận ra tuyên bố Thập kỷ 2021 - 2030 là "Thập kỷ Phục hồi hệ sinh thái"; Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh- Montreal được thông qua vào tháng 12 năm 2022 tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (CBD COP15) với mục tiêu thể hiện quyết tâm ngăn chặn suy thoái đa dạng sinh học, phục hồi thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hành tinh.

thập kỷ phục hồi hệ sinh thái
Năm 2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đồng thuận ra tuyên bố Thập kỷ 2021 - 2030 là "Thập kỷ Phục hồi hệ sinh thái"; Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh- Montreal được thông qua vào tháng 12 năm 2022 tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (CBD COP15) với mục tiêu thể hiện quyết tâm ngăn chặn suy thoái đa dạng sinh học, phục hồi thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hành tinh.

Có đa dạng sinh học cao, giá trị và quý hiếm Việt Nam luôn chú trọng công tác BVMT, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học

Việt Nam được nhận định là một trong 16 quốc gia sở hữu đa dạng sinh học cao nhất thế giới với 03 nhóm hệ sinh thái cơ bản: hệ sinh thái trên cạn; hệ sinh thái đất ngập nước và hệ sinh thái biển; trong thời gian qua đã ghi nhận 112 loài động, thực vật mới được phát hiện, trong đó có 106 loài đặc hữu tại Việt Nam, trong đó có những loài động vật cực kỳ quý hiếm, cả thế giới chỉ có ở Việt Nam như Gà lôi lam mào trắng Việt Nam, Mang Trường Sơn, Voọc mông trắng.

Việt Nam cũng là một trong các Trung tâm có nguồn gen cây trồng và vật nuôi địa phương đa dạng của thế giới, gồm hơn 6.000 giống lúa, khoảng 800 loài cây trồng và là nguồn gốc của khoảng 887 giống vật nuôi, trong đó có khoảng 30 giống đang được sử dụng rộng rãi. Các hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng bảo là nguồn vốn tự nhiên quan trọng cho phát triển bền vững nhiều ngành kinh tế, đặc biệt đối với nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch và dược liệu. Bảo tồn đa dạng sinh học đã được Đảng và Nhà nước được coi là một trong những giải pháp để thực hiện phát triển bền vững đất nước.

Thực tế Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước vào ngày 16/11/1994, Bộ Nông nghiệp và Môi trường được Chính phủ giao là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện Công ước này. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng luôn chú trọng công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học gắn với phát triển kinh tế xã hội Cụ thể như Hiến pháp năm 1980, 1992 và 2013 đã có các nội dung về bảo vệ môi trường, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường của người dân. Các nội dung này đã được cụ thể hóa trong Luật Bảo vệ môi trường từ năm 1993 (sửa đổi năm 2004, 2014, 2020). Luật Bảo vệ môi trường 2020 đặt mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, coi đây là nội dung trọng tâm, quyết định cho các chính sách bảo vệ môi trường…

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức cả khách quan và chủ quan, Việt Nam đã giữ gìn, đầu tư, phát triển diện tích che phủ rừng của nước đạt 42,02%, tương đương 13.927.122ha, trong đó, rừng tự nhiên 10.129.751ha; thành lập 178 khu bảo tồn thiên nhiên; 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới, 03 khu Di sản thiên nhiên thế giới, 12 Vườn di sản ASEAN, 04 Công viên địa chất toàn cầu, 09 Vùng đất ngập nước tầm quan trọng quốc tế (Khu Ramsar) đã được quốc tế công nhận.

3 trọng tâm và 6 giải pháp để bảo tồn đa dạng sinh học trong giai đoạn tới

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc, nỗ lực hành động khẩn cấp nhằm đảo ngược xu hướng suy thoái đa dạng sinh học đồng thời hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn 2050, Việt Nam đã xác định 3 hướng trọng gồm: (i) Tăng cường bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên, các loài hoang dã, nguồn gen của Việt Nam nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị của thiên nhiên, hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đất nước; (ii) Đầu tư vào vốn tự nhiên và sử dụng hợp lý các dịch vụ hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lâu dài, nền tảng cho phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững; (iii) Chú trọng quyền và lợi ích của cộng đồng và các bên liên quan trong bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.

Đồng thời Bộ nông nghiệp và Môi trường cũng kiến nghị 6 giải pháp thực hiện cụ thể: Một là Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học, cụ thể như: Hoàn thiện pháp luật, thể chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý về đa dạng sinh học; Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thực thi pháp luật của đội ngũ quản lý đa dạng sinh học từ Trung ương đến địa phương; đa dạng hóa nguồn lực và phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác bảo tồn đa dạng sinh học các cấp. Lồng ghép bảo tồn Đa dạng sinh học trong các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch của các ngành kinh tế có tác động nhiều đến đa dạng sinh học như nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, giao thông, năng lượng, sử dụng đất. Đặc biệt, các khu vực bảo tồn cần được ưu tiên trong các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.

Hai là Huy động sự tham gia của cộng đồng và khu vực tư nhân trong công tác bảo tồn, phục hồi, sử dụng bền vững đa dạng sinh học, di sản thiên nhiên; tạo cơ chế để có thể huy động các lực lượng tham gia vào công tác bảo tồn, thông qua các cơ chế đồng quản lý, cơ chế tự quản và các mô hình hợp tác công tư nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững thiên nhiên, đa dạng sinh học;

Ba là Kiểm soát chặt chẽ các tác động lên đa dạng sinh học, đặc biệt là tác động từ các dự án phát triển thông qua việc thực hiện tốt đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường;

Bốn là Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức nhằm hướng tới mẫu hình tiêu thụ bền vững đối với tài nguyên sinh vật, thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan trong bảo tồn đa dạng sinh học;

Năm là Mở rộng hợp tác quốc tế, huy động hỗ trợ và chuyển giao công nghệ và nghiên cứu khoa học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học;

Sáu là Thiết lập, củng cố hệ thống thông tin về đa dạng sinh học, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý di sản thiên nhiên, đa dạng sinh học.

Tích hợp bảo tồn đa dạng sinh học vào các quy hoạch phát triển quốc gia và ngành sẽ giúp giảm thiểu các rủi ro và chi phí

Phát biểu tại Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế đa dạng sinh học 2025, ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện, UNDP Việt Nam cho biết: “Việt Nam được công nhận trên toàn cầu về sự đa dạng sinh học phong phú, tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên này đang chịu áp lực ngày càng tăng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy hơn một phần ba số loài động vật có vú của Việt Nam đang có nguy cơ tuyệt chủng. Đây không chỉ là mối quan tâm của quốc gia mà nó phản ánh một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Mất đa dạng sinh học đe dọa đến các yếu tố nền tảng quan trọng của nền kinh tế, an ninh lương thực và sức khỏe”

dại diện UNDP
Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện, UNDP Việt Nam phát biểu tại sự kiện.

Theo ông Patrick Haverman việc tích hợp bảo tồn đa dạng sinh học vào các quy hoạch phát triển quốc gia và ngành, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển đổi năng lượng…, là điều cần thiết bới khi thiên nhiên được coi trọng và bảo vệ ngay từ đầu khi làm quy hoạch phát triển, sẽ giúp giảm thiểu các rủi ro và chi phí trong tương lai.

Để giải quyết các thách thức bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học trong bối cảnh hiện nay Phó đại diện UNDP Việt Nam cũng khuyến nghị các giải pháp như: du lịch bền vững dựa vào thiên nhiên trong các Khu bảo tồn, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, chi trả dịch vụ hệ sinh thái cho các hệ sinh thái biển và đất ngập nước, và tài chính carbon là những công cụ mạnh mẽ để huy động đầu tư của khu vực tư nhân cho bảo tồn thiên nhiên.

Tuy nhiên theo đại diện UNDP, hiệu quả của các chính sách này phụ thuộc vào việc có được một môi trường pháp lý thuận lợi, rõ ràng với sự lãnh đạo mạnh mẽ, quyết tâm của nhà nước. Xây dựng khung pháp lý và chính sách rõ ràng, có tầm nhìn xa, chính phủ có thể tạo ra các điều kiện cần thiết để các cơ chế tài chính bền vững được xây dựng, áp dụng và phát triển.

Phan Vy - Thanh Hà