Làm gì để có các KCN thân thiện môi trường?

Việc phát triển các KCN ở Việt Nam hiện còn thiếu bền vững, chưa đi đôi với bảo vệ môi trường. Nhiều dự án ở các KCN chưa xử lý tốt các chất thải rắn, chất thải lỏng và khí thải, gây ô nhiễm môi trườn

Hiện trạng và ô nhiễm môi trường ở các KCN

   Theo một kết quả khảo sát cho thấy, vào năm 2010, mức độ ô nhiễm môi trường tại Việt Nam sẽ tăng gấp 4 - 5 lần hiện nay, đặc biệt nghiêm trọng là môi trường KCN. Hiện 70% trong tổng số 12.757 KCN trong cả nước chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 90% cơ sở sản xuất đổ thẳng chất thải ra môi trường; ngoài 220 ngàn tấn rác thải công nghiệp, hàng năm đã thải ra 47,2 triệu m3 nước thải công nghiệp…
    Bên cạnh đó, tình trạng khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản đang diễn ra khá phổ biến cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên. Đã có trên 1.000 điểm khai thác và thu gom than trái phép bị phát hiện, xử lý.
    Nhiều doanh nghiệp khai thác khoáng sản hợp pháp cũng vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà vi phạm quy trình khai thác, dẫn đến lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Cho dù công tác bảo vệ môi trường đã được đẩy mạnh trong thời gian gần đây, chẳng hạn việc ban hành nhiều văn bản về xử phạt gây ô nhiễm ô trường, thành lập đội Cảnh sát Môi trường... nhưng tình trạng ô nhiễm như hiện nay vẫn khiến Việt Nam sẽ phải tốn kém trong nhiều năm để giải quyết hậu quả.
    Người ta đã cảnh báo, nếu Việt Nam không có biện pháp khắc phục kịp thời, tổn thất kinh tế do ô nhiễm môi trường sẽ lên đến 0,3% GDP vào năm 2010 và 1,2% vào năm 2020. Nghiên cứu, khảo sát được thực hiện tại 18 ngành và lĩnh vực kinh tế cho thấy, tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải, dẫn đến ô nhiễm môi trường đáng báo động ở các thành phố lớn, các KCN. Nhiều doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng các quy định về quản lý môi trường.
    Một nghiên cứu đã tính toán, nhu cầu đầu tư cho bảo vệ môi trường đến năm 2020 là khoảng 7,6 tỷ USD; tập trung vào một số ngành như chế biến rượu bia, thủy sản, giấy, dệt may; xây dựng, cơ khí, giao thông, điện, y tế; trong đó, ngành thép bị coi là ngành gây ô nhiễm môi trường nặng nề nhất.
    Ngay tại Thủ đô Hà Nội, việc thoát nước cũng mới được đầu tư vào 9 quận nội thành. Vì vậy, nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm các con sông là do nước thải sinh hoạt, công nghiệp, làng nghề chưa qua xử lý. Sau 5 năm triển khai Quyết định 74/2003/QĐ-UB ngày 17/06/2003 về việc di chuyển các cơ sở sản xuất không còn phù hợp quy hoạch hoặc gây ô nhiễm môi trường ra khỏi các quận nội thành, thành phố mới di dời xong 22/142 cơ sở. Như vậy, tiến độ di dời các cơ sở trên còn chậm. Tuy UBND thành phố đã tạo điều kiện để các đơn vị di dời khắc phục khó khăn, huy động các nguồn lực tham gia các dự án cung ứng dịch vụ công cộng thuộc lĩnh vực xã hội hóa và giải quyết những vấn đề bức xúc dân sinh, đảm bảo hài hòa lợi ích của doanh nghiệp, nhà nước và xã hội, nhưng xem ra chưa hiệu quả.

Những vấn đề cần có để xây dựng KCN thân thiện môi trường

   Để tạo điều kiện phát triển ngành nghề nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp, làng nghề... cần phải có sự đảm bảo lợi ích bền vững cho nông dân. Vì vậy, xây dựng các khu công nghiệp thân thiện môi trường (KCN TTMT) đang là vấn đề cấp bách.
   Để có các KCN TTMT các nhà khoa học, quản lý cho rằng:
 - Phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống quản lý và bảo vệ môi trường ở KCN; lồng ghép vấn đề quy hoạch KCN với quy hoạch môi trường; áp dụng công nghệ sạch, ít tiêu thụ năng lượng, ít chất thải, tái chế, tái sử dụng tối đa; áp dụng ISO 14.000 cho tất cả các doanh nghiệp; bắt buộc các doanh nghiệp phải xử lý 100% nước thải, khí thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại trước khi thải ra môi trường.
- Phát triển công nghệ thân thiện với môi trường. Cụ thể, thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới. Trong đó, du nhập công nghệ thích hợp từ nước ngoài và quan trọng phải phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, Nhà nước cần ưu tiên cho các công nghệ, thiết bị có sử dụng nguồn nhiên liệu địa phương.
 - Cần làm rõ hơn về hệ thống tiêu chí thân thiện môi trường và các chính sách nhà nước cần thiết phải áp dụng, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển đổi các KCN gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sang mô hình KCN TTMT tiên tiến và hiện đại hơn, đáp ứng ngày càng đầy đủ các tiêu chí của sự nghiệp phát triển bền vững theo nhu cầu xây dựng nền sản xuất công nghiệp xanh - sạch - đẹp và hướng tới sinh thái công nghiệp có tiêu chuẩn thân thiện môi trường cao nhất.
- Miễn giảm chi phí thuê đất cho các DN và người thuê đất cũng như hỗ trợ tài chính trong quá trình thay đổi công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để khuyến khích các cá nhân và DN tham gia KCN TTMT.
- Khuyến khích giảm chi phí, tăng hiệu quả SX bằng cách tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng nguyên - vật liệu và năng lượng; tái chế và tái sử dụng chất thải; chia sẻ chi phí cho các dịch vụ chung: quản lý chất thải, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp và hệ thống thông tin môi trường cùng các dịch vụ hỗ trợ khác.
Nếu chúng ta làm tốt những yêu cầu trên thì sẽ tạo ra một động lực phát triển kinh tế:
- Tăng giá trị SXCN, dịch vụ, thu hút đầu tư, cơ hội tạo việc làm cho người lao động.
- Tạo điều kiện hỗ trợ và phát triển các ngành CN địa phương, làng nghề truyền thống cùng tồn tại và phát triển.
- Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới.
- Thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài để tạo việc làm mới trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
- Tạo động lực hỗ trợ các dự án phát triển mở rộng của địa phương về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cải tạo và phát triển nhà ở…
- Tạo một bộ mặt mới, một môi trường trong sạch và hấp dẫn cho toàn khu vực, làm thay đổi cách nhìn thiếu thiện cảm cố hữu của cộng đồng đối với SXCN lâu nay.
- Tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc thiết lập các chính sách, luật lệ về môi trường và kinh doanh ngày càng thích ứng với xu thế hội nhập và phát triển bền vững.
- Giảm các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường, giảm lượng chất thải cũng như giảm nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên cứu mới nhất về sản xuất sạch, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải, tái tạo tài nguyên và các phương pháp quản lý môi trường và công nghệ mới khác.

Kết luận

   Mô hình KCN truyền thống đã bộc lộ những hạn chế nhất định xét từ góc độ môi trường. Mô hình KCN TTMT sẽ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng không chỉ trong tăng trưởng kinh tế bền vững, mà còn là công cụ bảo vệ môi trường hữu hiệu. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, khả năng ứng dụng các điều kiện tự nhiên, điều kiện KT - XH và các tiềm năng KH&CN để phát triển thành công mô hình KCN TTMT phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.