PV: Xin ông đánh giá khái quát thực trạng rác thải công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Ông Bùi Cách Tuyến: Hiện nay, nền công nghiệp nước ta đang phát triển mạnh cả về quy mô lẫn chiều sâu. Các ngành công nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN) cũng rất đa dạng, bao gồm các lĩnh vực như cơ khí, luyện kim, hoá chất, chế biến, dệt may, da giầy, vật liệu xây dựng, điện tử... Ước tính tổng khối lượng chất thải rắn (CTR) phát sinh tại các KCN tập trung trong cả nước khoảng 4.500 tấn/ngày. CTR từ các KCN chủ yếu tập trung ở 2 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam. Khối lượng CTR công nghiệp từ các cơ sở riêng lẻ cũng tập trung nhiều nhất ở 2 vùng kinh tế trọng điểm này.
Bên cạnh lượng phát sinh lớn, đặc điểm của CTR công nghiệp là có thành phần phức tạp và tính nguy hại cao. Thành phần CTR khác nhau tuỳ theo từng loại hình công nghiệp. Các thành phần chủ yếu là giấy, catton, kim loại, thuỷ tinh, giẻ lau, plastic, nilon, bao bì PP, PE, thùng PVC, thùng kim loại, dầu thải, bã sơn, bùn bã thải, gỗ, vỏ cây, mùn cưa, rác thực phẩm, cao su, tro, xỉ than, xỉ kim loại... Hiện chưa có thống kê chính xác về khối lượng CTR công nghiệp nguy hại trong toàn quốc, nhưng ước tính khoảng 35-40% tổng lượng CTR phát sinh từ hoạt động công nghiệp .
PV: Để góp phần hạn chế chất thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở sản xuất công nghiệp cần phải làm gì, thưa ông?
Ông Bùi Cách Tuyến: Trước hết, cần phân loại chất thải rắn. Chất thải rắn công nghiệp phần lớn là các nguyên vật liệu, hoặc phế phẩm từ quá trình sản xuất, nên thường được phân loại ngay từ nguồn phát sinh nhằm tận thu, tái chế một cách triệt để: Phế thải có khả năng tái sử dụng, được dùng ngay làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất của chính cơ sở đó; phế thải không có khả năng tái sử dụng, nhưng có thể tận dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất thứ cấp khác thì được thu gom, phân loại và bán cho các cơ sở tái chế có nhu cầu; còn lại các chất thải không thể tái sử dụng được chuyển tới kho chứa chất thải của các cơ sở sản xuất, hoặc được các đơn vị thu gom CTR đưa ra khỏi KCN. Như vậy, hầu hết CTR tại các KCN được phân làm 2 loại: có thể tái sử dụng, tái chế và không thể tái sử dụng, tái chế.
Về thu gom, vận chuyển: Phần lớn các cơ sở sản xuất hợp đồng với công ty môi trường đô thị, vận chuyển chất thải rắn tới chôn lấp tại bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt đô thị. Hầu hết các đô thị Việt Nam đều chưa có khả năng xử lý CTR công nghiệp, đặc biệt là CTR công nghiệp nguy hại. Do vậy, các công ty môi trường mới chỉ thu gom, vận chuyển được CTR sinh hoạt phát sinh trong các KCN, hoặc thu gom CTR công nghiệp lẫn với CTR sinh hoạt và đưa tới khu xử lý, bãi chôn lấp chung của đô thị. Việc thu gom, xử lý CTR công nghiệp nói chung và CTR công nghiệp nguy hại nói riêng, cần được đầu tư thỏa đáng về công nghệ và vốn. Hiện nay, mức phí thu gom CTR công nghiệp còn tương đối thấp, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền xử lý ô nhiễm chưa được thực hiện đầy đủ. Vì vậy, việc thu gom, vận chuyển và xử lý CTR công nghiệp còn manh mún, tự phát và không hiệu quả.
Tái chế: Việc tái chế, tái sử dụng CTR công nghiệp là rất cần thiết và được khuyến khích thực hiện. Các chất thải có thể tái sử dụng được các sở sản xuất thu hồi để quay vòng sử dụng cho các hoạt động sản xuất. Các chất có khả năng tái chế được cơ sở sản xuất thu hồi để bán cho các đơn vị thu mua để tái chế. Phần lớn các cơ sở tái chế có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ.
PV: Có thông tin, một số doanh nghiệp nước ta vẫn lén lút nhập các loại phế liệu từ nước ngoài để tái chế, ông có nhận xét gì về vấn đề này và biện pháp xử lý ra sao?
Ông Bùi Cách Tuyến: Để tháo gỡ khó khăn cho một số ngành sản xuất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu đầu vào, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của nước ta, đồng thời vẫn bảo đảm các yêu cầu bảo vệ môi trường, trong thời gian qua, vẫn có nhiều tổ chức, cá nhân nhập khẩu một số loại phế liệu thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu về làm nguyên liệu sản xuất trong nước, như phế liệu kim loại, giấy, bìa carton, nhựa..., và đã đem lại một số hiệu quả kinh tế nhất định. Tuy nhiên, cũng đã có một số tổ chức, cá nhân cố tình nhập khẩu phế liệu không có trong Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu (ắc quy chì a xít, lốp ô-tô đã qua sử dụng...); nhập phế liệu không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường quy định tại Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường (nhập khẩu sắt, thép phế liệu có lẫn chất thải nguy hại, nhập nhựa phế liệu có lẫn nhiều các loại chai nhựa đựng nước giải khát, đựng mỹ phẩm, can đựng dầu mỡ, chưa được phân loại, làm sạch...). Các doanh nghiệp vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 16, Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
PV: Cục Bảo vệ Môi trường và các cơ quan chức năng có đề xuất gì trong việc lựa chọn thiết bị công nghệ để xử lý triệt để vấn đề rác thải trong công nghiệp?
Ông Bùi Cách Tuyến: Hiện nay, hầu hết các KCN chưa có khu xử lý CTR tập trung, nên CTR công nghiệp phát sinh từ các cơ sở sản xuất sẽ phải đi theo nhiều dòng khác nhau, bao gồm rác tái chế; CTR thông thường (chủ yếu là rác thải sinh hoạt); chất thải rắn nguy hại. Do đó, việc lựa chọn công nghệ, thiết bị xử lý CTR công nghiệp có hai phương án sau :
- Lựa chọn công nghệ, thiết bị cho khu xử lý tập trung, thì chọn phương án xử lý rác theo chu trình khép kín.
- Đối với từng loại rác thải thì đều có những công nghệ xử lý khác nhau để có thể tận dụng triệt để phục vụ cho các mục đích khác. Như, rác thải sinh hoạt được chế biến thành phân hữu cơ, chất thải rắn nguy hại được xử lý trong lò đốt... Hiện nay, công nghệ Seraphin và công nghệ An Sinh-ASC đang được áp dụng để xử lý rác thải tại Việt Nam. Các công nghệ này có ưu điểm như chi phí đầu tư thấp, phù hợp với tính chất rác thải Việt Nam, tỷ lệ tái chế cao, diện tích sử dụng đất ít, thời gian thi công nhanh, dễ sửa chữa và thay thế thiết bị. Các công nghệ này còn có khả năng xử lý hết rác trong ngày, không cần bãi chôn lấp, không có nước rỉ rác..., nên rất thuận lợi trong việc lựa chọn địa điểm và quy hoạch khu xử lý do không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Các nhà máy loại này không cần đặt ở địa điểm cách xa khu dân cư như quy định đối với bãi chôn lấp. Nhu cầu sử dụng đất của nhà máy tương đối nhỏ, nên có thể đặt ngay gần các khu công nghiệp, khu đô thị, gần với các điểm phát sinh rác thải, do vậy giảm chi phí vận chuyển rác..
PV: Xin cảm ơn ông!