Sau hơn 6 năm thực thi, không chỉ có lĩnh vực thương mại, Hiệp định CPTPP đã có những tác động tích cực tới dòng vốn đầu tư của các nước Thành viên vào Việt Nam.
Việc thực thi mạng lưới FTA rộng khắp với hàng loạt ưu đãi thuế quan và xuất xứ cho hàng hóa xuất khẩu đi nhiều thị trường trên thế giới, cùng những cam kết thuận lợi về đầu tư trong Hiệp định Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã khiến Việt Nam trở thành mảnh đất “màu mỡ” cho các nhà đầu tư CTPPP.
Kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực với Việt Nam từ tháng 1/2019, thu hút đầu tư từ khối này ngày càng tăng trưởng khả quan. Số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2019, Việt Nam thu hút tổng vốn FDI xấp xỉ 9,5 tỷ USD từ các nước CPTPP thì đến năm 2022, con số này đã đạt khoảng gần 11,5 tỷ USD, tăng 2,6 tỷ USD so với năm 2021.
Theo số liệu mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), sau 10 tháng năm 2025, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới của cả nước đạt 14,07 tỷ USD với 3.321 dự án được cấp phép, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước về số dự án. Trong số 87 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 10 tháng qua, Singapore tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3,76 tỷ USD, chiếm 26,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; trong khi đó Nhật Bản xếp ở vị trí thứ 4 với 1,17 tỷ USD, chiếm 8,3% tổng vốn FDI đăng ký cấp mới. Đây là minh chứng cụ thể cho vị thế của các nhà đầu tư Thành viên Hiệp định CPTPP tại Việt Nam hiện nay.


Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến hết tháng 1/2025 Singapore có 3.951 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số vốn hơn 84 tỷ USD.
Trong những năm qua, hoạt động thu hút đầu tư từ Singapore vào Việt Nam dựa trên chiến lược hợp tác kinh tế và chuyển giao công nghệ thuộc 5 trụ cột, bao gồm: Kết nối năng lượng; phát triển bền vững; cơ sở hạ tầng; kỹ thuật số và đổi mới sáng tạo; kết nối (bao gồm các lĩnh vực như giáo dục, tài chính, công nghệ thông tin và viễn thông, du lịch, đầu tư, thương mại và dịch vụ, giao thông vận tải.
Trong đó, có thể nói các khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP) ở nhiều địa phương trên cả nước chính là biểu tượng của sự hợp tác kinh tế, đầu tư, chuyển giao công nghệ giữa hai nước. Các khu công nghiệp do liên doanh Việt Nam - Singapore phát triển đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp sản xuất, trong và ngoài nước, tạo ra hàng chục nghìn việc làm cho người lao động Việt Nam và góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa của các địa phương và cả nước. Hiện nay, Singapore đang hoạt động 20 khu công nghiệp VSIP tại các tỉnh, thành trên cả nước với tổng diện tích khoảng 12.000 ha. Dự kiến, thời gian tới có một số khu công nghiệp VSIP mới sẽ được triển khai xây dựng tại Hưng Yên, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng…
Bên cạnh đó, việc thúc đẩy FDI từ Singapore vào Việt Nam trong thời gian tới tiếp tục được định hướng tăng cường hợp tác và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế số và đổi mới sáng tạo; bất động sản công nghiệp - dịch vụ, phát triển bền vững, đáp ứng các mục tiêu về biến đổi khí hậu; và đẩy mạnh kết nối nhiều mặt về thương mại, đầu tư, tài chính, giao thông - vận tải, du lịch.
Đáng chú ý, Makara Capital - tập đoàn lớn của Singapore về quản lý quỹ, tài sản, đầu tư, tư vấn dịch vụ và cung cấp giải pháp cấu trúc tài chính trong các cuộc tiếp xúc gần đây với Lãnh đạo Chính phủ Việt Nam bày tỏ mong muốn úc tiến tích cực để đầu tư cho dự án Khu công nghiệp dược -sinh học tại Hưng Yên với quy mô gần 300 ha; làm việc với các cơ quan và địa phương liên quan phía Việt Nam để hợp tác đầu tư, cung cấp vốn cho các dự án trong lĩnh vực năng lượng, hạ tầng; đồng thời mong muốn tham gia tái cơ cấu ngân hàng Việt Nam, đặc biệt tham gia xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam… với khả năng kêu gọi, huy động khoảng từ 5 - 7 tỷ USD vốn đầu tư...





Tính đến tháng 3/2025, Nhật Bản hiện có hơn 5.500 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn gần 80 tỷ USD, trải rộng trên nhiều tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung vào công nghiệp sản xuất, chế biến, năng lượng, công nghệ cao.
Trong số các lĩnh vực đầu tư chính của Nhật Bản tại Việt Nam thì công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực chiếm ưu thế với sự tham gia của nhiều tập đoàn lớn như: Toyota, Honda, Canon, Yamaha, Panasonic… không chỉ xây dựng các nhà máy lớn mà còn kéo theo hàng trăm vệ tinh trong chuỗi cung ứng. Các tập đoàn phụ trợ như Nidec Sankyo, Sanyo, Denso, Mitsuba, Yaskawa, Daikin… cũng mở rộng hoạt động, tạo ra hàng chục nghìn việc làm và chuyển giao công nghệ sản xuất hiện đại. TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… là những trung tâm đầu tư sản xuất lớn của Nhật Bản.
Trong lĩnh vực dịch vụ và bán lẻ, các nhà đầu tư Nhật Bản như Uniqlo, Muji, Aeon đang mở rộng đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng gia tăng tại thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó, những lĩnh vực tài chính tiêu dùng, ngân hàng số và fintech, xu hướng đầu tư vào các ngành mới như bán dẫn, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo (AI) và các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, hạ tầng khu công nghiệp và y tế cũng đang được các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam chú trọng.
Trong khuôn khổ Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Nhật Bản về hợp tác công nghiệp, thương mại và năng lượng, thời gian qua Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Năng lượng, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) đã xây dựng Kế hoạch triển khai hoạt động hợp tác thuộc lĩnh vực công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ.
Theo đó, Nhật Bản sẽ triển khai các dự án hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, như: Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam” do JICA thực hiện; Chương trình “Đào tạo cho các nhà sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô Việt Nam” do Tổ chức hợp tác kỹ thuật nước ngoài và đối tác bền vững (AOTS) thực hiện. Nhật Bản đã tiếp tục cử chuyên gia hỗ trợ các Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp trong công tác vận hành và nâng cao nguồn nhân lực.
Cùng với đó, trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản về chiến lược công nghiệp hóa, các cơ quan chức năng hai nước tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ cho 6 ngành ưu tiên (điện tử; máy nông nghiệp; chế biến nông, thủy sản; đóng tàu; môi trường và tiết kiệm năng lượng; sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô) thông qua việc hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách ưu đãi tín dụng... và tổ chức thực hiện các chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ cụ thể cho 6 ngành ưu tiên.
Để tiếp tục thu hút đầu tư chất lượng cao từ Nhật Bản, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản khuyến nghị các Bộ, ngành, địa phương của Việt Nam cần chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, cụ thể: Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc biệt là các quy trình cấp phép đầu tư, để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp; Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng minh bạch, dễ dự đoán và nhất quán, giải quyết kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp Nhật Bản; Tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, đảm bảo sự ổn định và tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thu hút FDI vào các ngành giá trị gia tăng cao và công nghiệp hỗ trợ. Tăng cường phát triển năng lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ: tìm kiếm kêu gọi hợp tác, tài trợ cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Khuyến khích chuyển giao công nghệ và hợp tác R&D giữa doanh nghiệp hai nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt của Nhật Bản.
Bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động hợp tác song phương trong các lĩnh vực, cụ thể: Duy trì đối thoại cấp cao và cơ chế hợp tác để giải quyết các vấn đề vướng mắc, định hướng hợp tác chiến lược; đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực như chuyển đổi số, kinh tế xanh, năng lượng sạch, logistic… phù hợp với định hướng phát triển bền vững và công nghệ cao của cả hai nước.

Sự cộng hưởng lợi thế từ việc thực thi đồng thời Hiệp định CPTPP và Hiệp định UKVFTA đã tạo đòn bẩy cho đầu tư của Vương quốc Anh vào Việt Nam cũng như mở rộng cơ hội hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước. Theo thống kê, tính đến hết tháng 8/2025, Vương quốc Anh có 606 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký 4,65 tỷ USD, đứng thứ 15/152 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư của Vương quốc Anh tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ, với các lĩnh vực trọng tâm như tài chính, năng lượng xanh và công nghệ. Đặc biệt, trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, Anh và Việt Nam đang hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ quan hệ Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) - nơi Anh đóng vai trò đồng chủ tịch.
Thông qua khuôn khổ JETP, các bên đang triển khai hàng loạt dự án năng lượng sạch, qua đó kích hoạt thêm hàng tỷ USD vốn tư nhân vào các lĩnh vực chuyển giao công nghệ, truyền tải điện và phát triển hạ tầng xanh.
Hai bên vừa ký biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác năng lượng sạch, trong đó phía Anh cam kết đề xuất 12 dự án thuộc khuôn khổ JETP và thu xếp hơn 300 triệu USD hỗ trợ Việt Nam giai đoạn 2025-2027. Các gói hỗ trợ này bao gồm tài chính, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và phát triển hạ tầng xanh nhằm bảo đảm quá trình chuyển đổi năng lượng cân bằng giữa ba mục tiêu: khí hậu, an ninh năng lượng và khả năng chi trả của nền kinh tế.
Về dịch vụ tài chính, Vương quốc Anh đang hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng hai Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, tập trung vào hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn ESG và đào tạo nguồn nhân lực tài chính chất lượng cao.

Cùng với Singapore, Nhật Bản, Vương quốc Anh, một số Thành viên CPTPP khác như: Canada, Malaysia, Australia… cũng là những nhà đầu tư tiềm năng và còn nhiều dư địa tăng trưởng đầu tư vào Việt Nam.
Theo các chuyên gia, để khai thác triệt để cơ hội thu hút đầu tư FDI từ khu vực CPTPP, các hoạt động xúc tiến đầu tư cần chuyển trọng tâm từ phạm vi rộng theo quốc gia sang tiếp cận nhà đầu tư tiềm năng theo ngành hàng, lĩnh vực sản xuất, hay địa phương, nhất là các tập đoàn FDI lớn. Các giải pháp thích hợp sẽ góp phần tận dụng lợi thế, ưu đãi của Hiệp định và gia tăng cơ hội tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia tại khu vực CPTPP.

Bài: Hoa Lê
Ảnh: Hoàng Phương, Media Team
Thiết kế: Duy Kiên - Maika Lê