Trong bối cảnh toàn cầu đang nỗ lực chuyển đổi theo hướng giảm phát thải, bảo vệ môi trường. Hiện thực hóa cam kết đưa “phát thải ròng về 0” Việt Nam cũng trong quá trình tái cơ cấu, xanh hóa nền kinh tế. Bối cảnh này đã mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ cho ngành Công nghiệp môi trường (CNMT) Việt Nam. Tuy nhiên đi cùng với đó cần nhiều giải pháp đồng bộ, đổi mới trong tư duy, cách tiếp cận đặc biệt là gỡ những điểm nghẽn hội tự nguồn lực nâng cao năng lực KHCN hướng tới tự chủ về công nghệ, thiết bị sản phẩm trong phục vụ bảo vệ môi trường.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1894/QĐ-TTg (Quyết định 1894/QĐ-TTg) phê duyệt Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam giai đoạn 2025-2030 (Chương trình). Một trong những mục tiêu được đánh giá là đột phá của Chương trình phát triển ngành CNMT giai đoạn 2025 -2030 là “đảm bảo độc lập tự chủ về công nghệ, thiết bị sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường ”.
Trao đổi tại Tọa đàm “Phát triển ngành công nghiệp môi trường thành ngành kinh tế độc lập đóng góp quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân” (do Tạp chí Công Thương thực hiện cuối tháng 10 vừa qua) TS Trần Văn Lượng - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam cho rằng, phát triển ngành CNMT trong giai đoạn hiện nay đã trở lên hết sức cấp bách, không chỉ có ý nghĩa giải quyết bài toán về môi trường đồng thời cần nhìn nhận ở góc độ khai thác các cơ hội từ ngành kinh tế môi trường, gia tăng các giá trị của những vật chất còn lại trong quá trình sản xuất, phát triển nền kinh tế tuần hoàn...
Theo TS. Trần Văn Lượng, CNMT là lĩnh vực tích hợp bởi nhiều lĩnh vực, công nghệ từ khâu chế tạo máy, ngành hóa chất, ngành xử lý nước, ngành nhiệt… vì thế đây là lĩnh vực tổng hợp có thị trường ngách rất riêng biệt; thực tế ngành CNMT của Việt Nam mới đang đáp ứng một phần yêu cầu bảo vệ môi trường trong quá khứ. Các doanh nghiệp CNMT trong nước mới chỉ có năng lực sản xuất các thiết bị cơ bản và trung cấp, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn và tiếp cận tài chính hạn chế.
TS Lượng chia sẻ, hầu hết những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao, bảo vệ môi trường thời gian qua và có thể là cả trong tương lai vẫn là sân chơi thuộc về các nhà đầu tư và những doanh nghiệp cung cấp thiết bị nước ngoài; Các doanh nghiệp, nhà khoa học CNMT trong nước hiện vẫn đang mày mò, tự mình thử nghiệm và đáp ứng một cái mức độ thị trường nhất định. Còn thị trường đòi hỏi công nghệ cao, nguồn lực lớn vẫn thuộc về khu vực nước ngoài. Từ thực trạng này Chủ tịch Hiệp hội CNMT Việt Nam cho rằng những mục tiêu Chương trình phát triển ngành CNMT giai đoạn 2025 -2030 đặt ra sẽ là đòn bẩy tạo động lực cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất ngành CNMT trong nước tăng tốc bứt phá.


Để hoàn thành mục tiêu “đảm bảo độc lập tự chủ về công nghệ, thiết bị sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường” thực tế giai đoạn 2025 -2030, Ngành CNMT cần đồng thời thực hiện hiệu quả các giải pháp như: hoàn thiện khung chính sách với danh mục công nghệ ưu tiên; có các giải pháp tài chính cho nghiên cứu phát triển (R&D) và mở rộng quy mô ( scale-up); Đầu tư cho hạ tầng thử nghiệm, chuẩn hóa (với các trung tâm thử nghiệm demo centers, phòng thí nghiệm hiệu chuẩn); cùng với đó là các cơ chế “kicầu” cho sản phẩm, thiết bị Ngành ( thông qua các chương trình mua sắm xanh - green public procurement, thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất - EPR) tạo thị trường; phát triển chuỗi cung ứng; đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ có điều kiện.
Theo TS Trần Văn Lượng để nâng cao năng lực công nghệ Việt Nam bên cạnh các giải pháp liên kết, tập hợp hiệu quả nguồn lực KHCN nội tại (vốn đang bị phân mảnh trong nước) cần phải tăng cường hợp tác, chia sẻ, kết nối, học hỏi các kinh nghiệm, thành tựu KHCN quốc tế trong lĩnh vực CNMT; đồng thời phải tăng cường mời gọi, thu hút những nhà đầu tư, nhà khoa học nước ngoài đến Việt Nam để chia sẻ các kinh nghiệm, định hướng trong vấn đề nghiên cứu khoa học cho các nhà khoa học cũng như các nhà đầu tư trong nước, mục tiêu kết nối và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực KHCN trong nước. Ông Lượng chia sẻ: “Thực sự tôi cho rằng nếu chúng ta cứ bắt đầu từ đầu - cứ tự mày mò nghiên cứu, chế tạo các công nghệ, thiết bị thì sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, giá trị chắc chắn sẽ không theo kịp” Vì thế theo Chủ tịch hiệp hội CNMT Việt Nam các doanh nghiệp CNMT cần cơ chế khuyến khích, cơ chế tạo thị trường minh bạch, bình đẳng thông qua các tiêu chuẩn sản phẩm, thiết bị và cơ chế thúc đẩy chuyển giao công nghệ để rút ngắn khoảng cách tiếp cận với những công nghệ hiện đại.

Nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong phát triển Ngành CNMT đặc biệt gắn liền với năng lực KHCN, TS.Trần Văn Lượng cho rằng cần phải nhanh chóng có những hoạch định chương trình đào tạo chuyên sâu cho lĩnh vực CNMT trong đó khu vực quản lý nhà nước đóng vai trò tạo động lực thu hút thúc đẩy và xây dựng nguồn lực. TS Lượng chia sẻ, thực tế về công nghệ Việt Nam có thể nhập khẩu và có thể kết nối chia sẻ được nhưng đi cùng đó thì phải có nhân lực đủ năng lực tiếp nhận thì mới có thể từng bước tiến tới tự chủ.
Chia sẻ tại Tọa đàm, Ths Nguyễn Đức Quyền - Chủ tịch hội đồng quản trị, Công ty cổ phần năng lượng và môi trường Bách khoa Hà Nội cho biết thực tế dù đã có những cơ chế, định hướng chính sách nhưng hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ hiện nay Việt Nam chưa có nhiều, đa phần thuần túy là là các hợp đồng kinh tế và thương mại - mua bán thiết bị và Việt Nam chỉ tiếp nhận phần kỹ thuật trong vận hành chứ chưa thẩm thấu được gì về công nghệ. Vì thế ông Quyền đồng thời đề xuất cần có những đòn bẩy chính sách ví dụ như giải pháp, rào cản kỹ thuật là sau 3 hoặc 5 năm thì nhà sản xuất, cung cấp thiết bị nước ngoài phải chuyển giao công nghệ cho người Việt Nam để các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận dần kỹ thuật đó, từ đó nâng cấp dần mức độ về công nghệ...

Từ góc độ doanh nghiệp CNMT chia sẻ tại Tọa đàm Ths Nguyễn Đức Quyền - Chủ tịch hội đồng quản trị, Công ty cổ phần năng lượng và môi trường Bách khoa Hà Nội cho biết trong lĩnh vực CNMT Việt Nam hiện mới nắm bắt được ở phạm vi quy mô nhỏ, những quá trình đơn giản và sẽ gặp nhiều thách thức về hội tụ nguồn lực (nhân lực và vật lực) trong triển khai thực hiện các công trình dự án môi trường lớn, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm ví dụ như là sắt thép, công nghệ nhiệt điện để sản xuất điện năng hoặc các lĩnh vực sản xuất tổng hợp.
Cụ thể ông Quyền cho biết, các nhà máy xử lý chất thải thì cơ bản Việt Nam đã làm chủ được gần như 100%. Nhưng sang quy mô lớn hơn, xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng, nhà máy công nghiệp nhiệt điện… liên quan đến tài chính, nguồn vốn đầu tư lớn, có sự chi phối của công nghệ cao…, doanh nghiệp CNMT Việt Nam rất khó có cơ hội để tham gia. Theo ông Quyền trong lĩnh vực CNMT các doanh nghiệp Việt Nam mới đang trả lời và tiêu hóa khá tốt về kỹ thuật chứ chưa hẳn là công nghệ. Bởi để giải mã cũng như để làm chủ công nghệ trong lĩnh vực này thì phải hiểu được đối tượng là gì, nguyên lý hoạt động ra làm sao, đặc biệt những thông số về ô nhiễm đầu vào, các quá trình công nghệ…; Điều này một phần có liên quan đến đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực CNMT( dẫn đến sự hạn chế cả về số lượng và chất lượng nhân lực). Bên cạnh đó là sự phân mảnh, hạn chế nguồn lực từ chính các đơn vị nghiên cứu, các doanh nghiệp CNMT trong nước dẫn đến chưa tập hợp được các nguồn lực về con người, trình độ KHCN, vốn…
Theo đó, ông Quyền bày tỏ mong đợi thời gian tới sẽ có các cơ chế để gắn kết, hội tụ hiệu quả nguồn lực tri thức KHCN của các nhà khoa học, những nghiên cứu chuyên sâu nhưng không phải là một hay hai mà là đa ngành từ cơ khí, hóa chất, tự động hóa…; Đồng thời với đó là các cơ chế khuyến khích thúc đẩy thị trường các sản phẩm thiết bị CNMT trong nước phát triển. Cụ thể theo ông Quyền các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường song hành với cơ chế giám sát thực thi hiệu quả…sẽ góp phần thúc đẩy thị trường các sản phẩm thiết bị môi trường.


Một khía cạnh được xem có vai trò quan trọng thúc đẩy tăng cường năng lực sản xuất thiết bị, sản phẩm CNMT là thị trường cho loại hàng hóa, dịch vụ này, theo TS Trần Văn Lượng trong điều kiện hiện nay thì những quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường chính là những hành lang pháp lý tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong phát triển các sản phẩm, thiết bị CNMT.
Giai đoạn đầu thì cần có các cơ chế cú huých hỗ trợ từ Nhà nước, đặc biệt là các định hướng chi tiết trong đó định nghĩa để xác định thế nào là sản phẩm CNMT là rất quan trọng. Thực tế theo Quyết định 980/QĐ-TTg- (năm 2023) Ban hành danh mục cụ thể công nghệ, thiết bị, sản phẩm ngành CNMT đã xây dựng được danh mục xác định thế nào là hàng hóa CNMT. Tuy nhiên theo TS. Trần Văn Lượng bước tiếp theo cần hoàn thiện cơ chế đặc thù riêng cho các sản phẩm, thiết bị này để thúc đẩy thị trường từ đó tăng cường năng lực trong sản xuất của Ngành tiến tới độc lập tự chủ trong sản xuất thiết bị, sản phẩm.



Trao đổi tại Tọa đàm, ông Phạm Sinh Thành – Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiêp cho biết để “ đảm bảo độc lập tự chủ về công nghệ, thiết bị sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường” bên cạnh thúc đẩy KHCN Chương trình CNMT 2025 -2030 cũng đã định hướng giải pháp trong huy động nguồn lực thúc đẩy Ngành là lấy kinh tế tư nhân làm trọng tâm, cùng với đó một số nhiệm vụ được giao cụ thể cho các cái hiệp hội ngành nghề nhằm khơi thông các nguồn lực của các thành phần kinh này tham gia vào phát triển CNMT.
Chương trình đồng thời định hướng chủ động tận dụng tiềm năng về nguồn lực sẵn có từ các tập đoàn, tổng công lớn , để hình thành các doanh nghiệp có thể đóng vai trò đầu tầu ( tổng thầu EPC) trong triển khai các dự án, công trình lớn trong bảo vệ môi trường. Vì thực tế các doanh nghiệp này có nguồn lực, quy mô lớn, tiềm năng trong nghiên cứu phát triển công nghệ, sản xuất thiết bị đồng thời cũng có thể là doanh nghiệp sử dụng dự án, công trình bảo vệ môi trường, qua đó từng bước tạo thị trường, sự chủ động trong sản xuất thiết bị sản phẩm…


Bài: Phan Vi
Ảnh: Minh Hưng
Thiết kế: Duy Kiên