Tình hình triển khai thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quát của Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam (còn được gọi là Chương trình Nghị sự 21) đó là: “Đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”.
Tính đến cuối năm 2009, một số bộ/ngành đã xây dựng Định hướng PTBV ngành như: Công nghiệp, Tài nguyên và Môi trường, Thủy sản, Xây dựng. Chương trình Nghị sự 21 của địa phương đã được xây dựng và phê duyệt tại 21 tỉnh/thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn La, Bắc Ninh, Ninh Bình, Yên Bái, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam…
Các quan điểm về PTBV cũng bước đầu được lồng ghép vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển. Hàng chục hội thảo và lớp tập huấn đã được tổ chức để phổ biến nội dung của "Định hướng chiến lược PTBV" cho cán bộ các cơ quan trung ương và địa phương.
Qua thực tiễn thực hiện Định hướng PTBV trong nhiều năm đã cho thấy có nhiều sáng kiến và mô hình PTBV được các Bộ ngành và địa phương triển khai. Trong đó, Bộ Công Thương là đơn vị điển hình đã triển khai và xây dựng được nhiều mô hình doanh nghiệp PTBV. Bên cạnh đó, một số địa phương đã xây dựng các mô hình trình diễn về PTBV đem lại những hiệu quả cao về bảo vệ môi trường, là những điển hình để các địa phương bạn học tập.
Trong thời gian qua, các hoat động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển bền vững cũng được tăng cường. PTBV được coi là nội dung quan trọng được lồng ghép trong chiến lược hợp tác phát triển của tất cả các nhà tài trợ đang phối hợp thực hiện các dự án kinh doanh tại Việt Nam. Đáng ghi nhận là, các tổ chức quốc tế song phương và đa phương (UNDP, SIDA, UNEP, DANIDA) đã hỗ trợ tích cực cho Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện PTBV. Nguồn vốn ODA tập trung chủ yếu vào phát tiển hạ tầng, các vấn đề xã hội, các vấn đề về phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm, vệ sinh môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực thể chế và nguồn nhân lực để hướng tới hoàn thiện bộ máy, khung chính sách, pháp luật đảm bảo PTBV.
Thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường
Mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn, bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng nền kinh tế của Việt Nam vẫn bảo đảm tăng trưởng khá nhanh với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm ước đạt 7%. GDP theo giá thực tế tính theo đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.162 USD, đưa nước ta ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Thứ hạng cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam theo Tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2010 đã tăng mạnh thêm 16 bậc và nằm trong số 59 quốc gia cạnh tranh toàn cầu mạnh nhất, so sánh với 137 nền kinh tế khác trên thế giới. Để duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời, vừa đảm bảo được sự phát triển theo hướng bền vững thì việc thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường, áp dụng sản xuất sạch hơn thực hiện theo Định hướng PTBV mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đã góp phần khắc phục thất thoát tài nguyên, nâng cao hiệu quả sản xuất ở nhiều doanh nghiệp.
Điều này được thể hiện rõ trong các hoạt động trong sản xuất kinh doanh và sinh hoạt ở nước ta đã ngày càng chú ý tới các phương pháp sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường. Nhiều ngành và địa phương đã đầu tư các công nghệ sản xuất mới, có mức tiêu hao thấp về vật tư và năng lượng, nên đã làm tăng hiệu quả sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, giảm thiểu chất thải ra môi trường, tỷ lệ thất thoát điện từng bước được khống chế và giảm dần.
Đặc biệt, triển khai thực hiện “Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020”, từ năm 2006, Bộ Công Thương đã có nhiều hoạt động khuyến khích áp dụng sản xuất sạch hơn. Tính đến hết năm 2009, đã có khoảng 300 doanh nghiệp thực hiện dự án áp dụng SXSH, kiểm toán chất thải. Đối với ngành khai thác khoáng sản, tình trạng khai thác bừa bãi và xuất khẩu tràn lan đã được khắc phục một phần.
Ngoài ra, để bảo vệ, gìn giữ tài nguyên và môi trường, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, chúng ta đã thực hiện các chính sách, chương trình và dự án như: giao đất khoán rừng cho hộ gia đình, trồng rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn, sản xuất theo mô hình nông lâm kết hợp, phát triển cây lâu năm, cây bản địa trên đất dốc, quản lý lưu vực sông và đất ven bờ.
Để bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước, thời gian qua, công tác điều tra cơ bản về tài nguyên nước, lập bản đồ lưu vực sông, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông, vùng lãnh thổ đã được quan tâm thực hiện. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng về tài nguyên nước, thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước được tăng cường.
Khai thác khoáng sản trong thời gian qua cũng có nhiều đổi mới. Đã hoàn thiện được cơ chế trong đầu tư khai thác, khâu phục hồi hoàn trả đất, tái tạo và cải thiện môi trường sinh thái ở các địa bàn khai thác mỏ, khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia tích cực hơn vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản.
Nhiều dự án về bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển đã được xây dựng và thực hiện. Các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm trao đổi thông tin, kinh nghiệm về quản lý và kiểm soát môi trường biển, ven biển và hải đảo, ứng phó, phòng chống sự cố tràn dầu được mở rộng.
Sau 12 năm triển khai thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã khoán bảo vệ rừng đặc dụng, phòng hộ với bình quân 2,6 triệu ha/năm, trồng mới 2,17 triệu ha rừng. Việc đẩy mạnh công tác trồng rừng đã ngăn chặn được nạn suy giảm diện tích và đưa độ phủ của rừng ngày một tăng.
Đặc biệt, trong những năm qua, chúng ta đã từng bước làm giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp. Nhiều cơ sở, nhà máy lớn đã áp dụng công nghệ kiểm soát phát thải hiện đại và sử dụng năng lượng hiệu quả. Hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cũng được rà soát, điều chỉnh bổ sung phù hợp với thực tiễn, là công cụ pháp lý quan trọng để quản lý và kiểm soát về chất lượng môi trường không khí. Đã xử lí 42 cơ sở trong số 145 cơ sở gây ô nhiễm không khí, các cơ sở khác đang gấp rút triển khai các biện pháp xử lý triệt để. Kết quả thực hiện đã góp phần cải thiện chất lượng môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng của các đô thị trong cả nước.
Công tác quản lý chất thải cũng có những tiến bộ nhất định. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt bình quân cả nước khoảng 80%. Tỷ lệ thu hồi các chất có khả năng tái chế và tái sử dụng khoảng 20-30%. Đã đầu tư, trang bị 43 lò đốt tại 35 tỉnh, đáp ứng xử lý 50% tổng lượng chất thải y tế nguy hại. Quy hoạch xử lý chất thải rắn 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và phía Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Ngoài ra để phát triển bền vững, các vấn đề như bảo tồn đa dạng sinh học, thực hiện các biện pháp làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, phòng và chống thiên tai cũng được đặc biệt quan tâm qua việc xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát triển bền vững là mục tiêu thực hiện lâu dài
Phát biển bền vững được Nhà nước ta xác định đây là mục tiêu lâu dài, gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để thúc đẩy việc thực hiện PTBV ở Việt Nam trong giai đoạn tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau: (1) Hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về PTBV, trong đó chú trọng xây dựng và triển khai thực hiện Định hướng PTBV giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Định hướng, kế hoạch hành động PTBV của ngành, địa phương; Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn về PTBV; Xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện định chiến lược PTBV ngành và địa phương. (2) Lồng ghép nguyên tắc PTBV trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, ngành và địa phương. (3) Đẩy mạnh công tác giáo dục PTBV, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về PTBV, đào tạo và tăng cường năng lực quản lý về PTBV cho đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng dân cư. (4) Huy động các nguồn lực để thực hiện PTBV và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Tăng cường đầu tư cho các hoạt động PTBV từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực huy động trong xã hội. Ưu tiên vận động vốn ODA và tăng cường nguồn vốn này cho thực hiện PTBV. (5) Xây dựng hệ thống giám sát, đánh giá việc thực hiện PTBV. (6) Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong việc triển khai thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV. (7) Huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện PTBV. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp, các đoàn thể quần chúng, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong thực hiện PTBV, trong tư vấn, phản biện và kiến nghị chính sách về PTBV. (8) Mở rộng hợp tác quốc tế về PTBV. Tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và thế giới về PTBV; Xây dựng và phát triển các mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương; Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế về PTBV.
Muốn phát triển bền vững phải bảo vệ môi trường và tài nguyên đất nước
TCCT
Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và ban hành Định hướng Chiến lược phát triển bền vững (PTBV) bao gồm những định hướng lớn về kinh tế