Sản lượng điện sản xuất các năm vượt kế hoạch được giao
Về tình hình sản xuất điện, từ năm 2021 đến nay, NĐVT4 luôn đạt và vượt kế hoạch được giao.
Theo đó, tổng sản lượng điện sản xuất của NĐVT4 thực hiện cả năm 2021 là 7.416,9 triệu kWh, đạt được 100,64% so với kế hoạch cả năm 2021 được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) giao.
Năm 2022, tổng sản lượng điện sản xuất toàn Nhà máy thực hiện trong mùa khô là 2.444,4 triệu kWh. So với kế hoạch mùa khô vượt 39,96 triệu kWh, đạt 101,66% so với kế hoạch, góp phần cùng các đơn vị phát điện khác nỗ lực đảm bảo đủ điện phát triển kinh tế xã hội cho đất nước.
Năm 2023, lũy kế sản lượng điện sản xuất Nhà máy thực hiện là 5.351,7 triệu kWh/ 5.345 triệu kWh, đạt 100,1% so với kế hoạch cả năm 2023 được EVN giao.
Đặc biệt trong năm 2024, vào lúc 23 giờ 49 phút ngày 07/11/2024, NĐVT4 đã đạt mốc sản lượng 50 tỷ kWh điện sau hơn 6 năm vận hành thương mại (Tổ máy thứ nhất 06/12/2017; Tổ máy thứ hai 31/3/2018; Tổ máy thứ ba 05/10/2019) đây là thời khắc đánh dấu mốc quan trọng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng đất nước. Có được kết quả đó là nhờ sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cán bộ, đoàn viên, người lao động Nhà máy.
Các chỉ số môi trường đạt hoặc tốt hơn quy định, chú trọng tiêu thụ và xử lý tro xỉ phát sinh
Hiện nay, Nhà máy có 7 trạm quan trắc nước thải, 3 trạm quan trắc khí thải, các trạm này đều có đường truyền chỉ tiêu tự động, liên tục đến website Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận và bảng tin điện tử đặt tại Cổng chính của Nhà máy; khi có bất thường về tín hiệu khắc phục quá 48h sẽ có báo cáo bằng văn bản tới các cơ quan chức năng. Ghi nhận các chỉ số khí thải, nước thải và các chỉ số khác có liên quan đều đạt và tốt hơn quy định của các cơ quan quản lý nhà nước.
Về vấn đề xử lý tiêu thụ tro xỉ, Nhà máy đã thực hiện điều chỉnh Đề án tiêu thụ tro xỉ của đơn vị và được EVN phê duyệt. Trong 10 tháng năm 2024, mặc dù đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, tuy nhiên Nhà máy chỉ tiêu thụ được hơn 70% lượng tro xỉ phát sinh, thấp hơn so với kỳ vọng.
Các nguyên nhân khách quan khiến tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ chưa được cao, có thể kể đến như: Qua việc khảo sát và cấp giấy chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy đối với tro xỉ của NĐVT4 cho thấy, tro xỉ của Nhà máy rất thích hợp cho các nhu cầu làm vật liệu xây dựng, phụ gia xi măng hay san lấp mặt bằng, làm nền đường giao thông và đặc biệt hàm lượng các chất độc hại, kim loại nặng đều thấp hơn ngưỡng cho phép nên không gây hại cho môi trường.
Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sản xuất từ tro, xỉ tại địa phương khá hạn chế, việc sử dụng tro, xỉ ở bãi xỉ để san lấp mặt bằng, làm đường giao thông tại khu vực cũng đang gặp nhiều khó khăn. Khoảng cách vận chuyển đến các khu vực tiêu thụ tro, xỉ tiềm năng phía Nam là khá xa, chi phí vận chuyển cao làm tăng đáng kể giá thành sản phẩm sản xuất từ tro, xỉ của Nhà máy.
Chưa có chính sách ưu tiên, các hướng dẫn cụ thể của chính quyền và cơ quan chức năng tại địa phương cho các dự án, công trình sử dụng tro xỉ thay thế vật liệu xây dựng truyền thống; mặc dù tro của NMNĐ Vĩnh Tân 4 có các thông số tốt, tuy nhiên do tro của Nhà máy có màu vàng, loại tro này trộn vào xi măng sẽ đổi màu xi măng nên thị trường ít tiêu thụ;…
Nhìn vào những kết quả đã đạt được có thể thấy, trong suốt quá trình thực hiện Đề án nâng cao độ tin cậy và hiệu suất vận hành các nhà máy điện giai đoạn 2021-2025, dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, nhưng Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 đã không ngừng nỗ lực, hướng tới mục tiêu hoàn thành tốt nhất, đạt được hiệu quả cao nhất các chỉ tiêu được đặt ra.
Trong thời gian tới, Nhà máy tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục tồn tại, quyết liệt thực hiện các giải pháp để nỗ lực phấn đấu đạt hiệu quả cao hơn nữa nhưng yêu cầu đặt ra, giữ vững môi trường sản xuất xanh, sạch, an toàn.