Những kết quả đạt được từ việc thực hiện Đề án phát triển nhiên liệu sinh học

Nhằm thay thế một phần nhiên liệu truyền thống hiện nay, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển nhiên liệu sinh học (NLSH) đến năm 2015, tầm
Thời gian qua, Bộ Công Thương đã tích cực chủ động triển khai Đề án, xây dựng các cơ sở sản xuất NLSH. Trong đó, tiềm lực khoa học và công nghệ trong lĩnh vực sản xuất và ứng dụng NLSH của Việt Nam bắt đầu được đầu tư. Thực hiện Đề án, bước đầu các chuyên gia tiếp cận các nghiên cứu triển khai trong lĩnh vực sản xuất và sử dụng NLSH và đã thu được một số kết quả quan trọng như; Xây dựng tiêu chuẩn E100, B100, E5, B5; Quy chuẩn quốc gia về xăng dầu và NLSH QCVN 01:2009; Dự thảo TCVN đối với xăng E10; Thành lập Tổ công tác xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản xuất, tồn trữ, phân phối và sử dụng NLSH. 

Trước đó, một số chính sách khuyến khích phát triển NLSH đã được xây dựng và ban hành như Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/2/2007 của Chính phủ quy định, trong giai đoạn 2007 – 2015, đầu tư sản xuất NLSH được xếp vào danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư; xây dựng quy hoạch ngành công nghiệp cồn nhiên liệu và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ vào tháng 11 tới Lộ trình bắt buộc tỷ lệ phối trộn NLSH với nhiên liệu truyền thống. 

Trong lĩnh vực đầu tư cho nghiên cứu, thử nghiệm, đã có nhiều đề tài nghiên cứu R-D, các dự án sản xuất thử nghiệm. Việc tổ chức việc đăng ký, tuyển chọn và phê duyệt các nội dung nghiên cứu triển khai, các dự án sản xuất thử nghiệm về NLSH sử dụng ngân sách Nhà nước về khoa học công nghệ với tổng kinh phí giai đoạn 2009 – 2011 là 43,376 tỷ đồng. Các đề tài, dự án đang được triển khai đều tập trung vào các vấn đề kỹ thuật nhằm giải quyết các yêu cầu thực tế và cấp bách nhất của Việt Nam trong những bước đầu tiên xây dựng và phát triển ngành công nghiệp NLSH tại Việt Nam. 

Trong việc đầu tư cho sản xuất, phân phối, hiện nay, riêng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) có 03 dự án sản xuất ethanol sinh học tổng công suất 300 triệu lít ethanol/năm. Ngoài ra, Công ty CP Đồng Xanh, Công ty Tùng Lâm và một số doanh nghiệp khác đầu tư sản xuất ethanol chủ yếu từ sắn. PVN còn đầu tư 04 cơ sở pha E5 tại Đình Vũ, Nhà Bè, Liên Chiểu, Vũng Tàu và 35 cửa hàng bán xăng E5 của PV oil và Petec tại các tỉnh, thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng, Huế, Tp. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ. 

Đối với lĩnh vực sản xuất diezen sinh học, cho đến nay, chỉ có một số ít dự án thử nghiệm sản xuất được triển khai và chưa có dự án qui mô lớn. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Công ty phát triển Lũng Lô 5,… đã xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu (cây jatropha), đồng thời, xây dựng nhà máy chế biến dầu diezen sinh học. 

Để việc triển khai thực hiện Đề án đạt hiệu quả cao hơn nữa, trong thời gian tới đây, các bộ, ngành tiếp tục rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích sản xuất sử dụng NLSH, nhiên liệu sạch, tập trung vào hệ thống phân phối và sử dụng. Trong đó, ưu tiên chính sách thúc đẩy việc sử dụng nguồn sinh khối rẻ, không gây tác động xấu đến an ninh lương thực để sản xuất NLSH. Sử dụng các công cụ quản lý như phí, thuế môi trường, thuế xuất khẩu nguyên liệu thô để khuyến khích sản xuất NLSH trong nước. Song song với việc triển khai thực hiện Lộ trình bắt buộc tỷ lệ phối trộn NLSH với nhiên liệu truyền thống là việc thực hiện Quy hoạch vùng nguyên liệu và sản xuất ethanol; Xây dựng quy chuẩn liên quan. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu nâng cao năng suất sản xuất sinh khối làm nguyên liệu cho sản xuất NLSH; Nghiên cứu về công nghệ pha chế NLSH, phụ gia, chất xúc tác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NLSH, giảm nhập khẩu; Nghiên cứu đa dạng hóa nguồn nguyên liệu cho sản xuất NLSH như phế phụ phẩm nông lâm nghiệp, sinh khối tảo,… đẩy mạnh mô hình các cơ sở sản xuất NLSH áp dụng cơ chế phát triển sạch CDM.