Nội địa hóa ngành năng lượng chưa như kỳ vọng, cần thêm giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ

Việc tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án năng lượng là một vấn đề then chốt Chính phủ đã đề ra, bởi đây không chỉ là thước đo năng lực sản xuất trong nước, mà còn là yếu tố quyết định khả năng tự chủ và bền vững của ngành năng lượng Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng toàn cầu.
Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng”do Tạp chí Công Thương thực hiện
Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng”do Tạp chí Công Thương thực hiện

Nội địa hóa chưa đạt kỳ vọng

Tại Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” do Tạp chí Công Thương thực hiện, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết việc tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án năng lượng là một vấn đề then chốt Chính phủ đã đề ra. Đây không chỉ là thước đo năng lực sản xuất trong nước, mà còn là yếu tố quyết định khả năng tự chủ và bền vững của ngành năng lượng Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Hiện nay, trong các dự án năng lượng, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện và nhiệt điện, tỷ lệ nội địa hóa đã có chuyển biến rõ rệt, nhưng chưa đạt được kỳ vọng như Chính phủ mong muốn.

Trong lĩnh vực điện gió, Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được khoảng 25-30% giá trị thiết bị, chủ yếu ở các hạng mục như: móng trụ, kết cấu thép, cọc, tháp turbine và hệ thống đấu nối. Một số doanh nghiệp trong nước như CS Wind, TOMECO, Lilama, Thiết bị điện Đông Anh EEMC đã có khả năng sản xuất và cung cấp các thiết bị, linh kiện đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Trong năng lượng mặt trời, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 35-40%, tập trung vào sản xuất khung giá đỡ, dây dẫn, tủ điện, inverter và một phần module PV. Việt Nam hiện là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời đứng trong Top 10 thế giới, với sự tham gia của các doanh nghiệp như Boviet Solar, IREX Solar, Vina Solar… tuy nhiên, chuỗi giá trị vật liệu bán dẫn, wafer, cell vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.

Ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương)
Ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương)

Trong lĩnh vực thiết bị điện, truyền tải và lưu trữ, nhiều doanh nghiệp cơ khí - điện của Việt Nam đã có thể làm chủ công nghệ, chủ động đầu tư công nghệ mới để làm tăng tỷ lệ nội địa hóa. Hiện cũng có một số các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực điện có tỷ lệ nội địa hóa lớn. Ví dụ như Tập đoàn Á Châu chuyên thiết kế các tủ bảng điện, PCB, PCBA… Hay Công ty cổ phần Vina Electric cũng đã chủ động sản xuất kích điện bằng silicon để thay thế sứ kích điện mà phải nhập khẩu từ phía Trung Quốc. 

“Đấy là chủ động hoàn toàn, các doanh nghiệp Việt Nam 100% làm chủ công nghệ”, ông Cường chia sẻ.

Theo ông Cường, những kết quả trên là tín hiệu tích cực, nhưng cũng cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, như Thái Lan (60-65%) hay Malaysia (55-60%) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. 

Hạn chế về tài chính, công nghệ, nhân lực kìm chân doanh nghiệp 

Các chuyên gia nhận định, có nhiều vấn đề đặt ra như dung lượng thị trường, nội lực của doanh nghiệp và quan điểm của các đối tác là chủ đầu tư, tổng thầu EPC dự án năng lượng. Song, năng lực của doanh nghiệp là vướng mắc lớn.

Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã có sự tiến bộ khá rõ rệt trong các vấn đề liên quan đến chất lượng sản phẩm, năng lực quản trị cũng như khả năng tiếp cận với những công nghệ mới. Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra một chút so với các nước xung quanh thì rõ ràng khoảng cách của ta với những nước phát triển vẫn còn khá lớn. 

Đa phần các doanh nghiệp Việt chưa làm chủ được công nghệ, còn đang khá yếu trong các hoạt động nghiên cứu phát triển R&D, dẫn đến hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm còn ở tỉ lệ rất khiêm tốn. 

“Việc này làm cho giá trị gia tăng của chúng ta trong sản phẩm vẫn còn hạn chế và đó cũng là một điểm kìm chân sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Thế thì làm thế nào chúng ta vượt qua những rào cản này? Và quay lại bài toán là chúng ta sẽ chuyển mình trước để đáp ứng sẵn những yêu cầu đó, hay là đợi khi nào được tham gia chuỗi, có những đơn hàng thì doanh nghiệp mới bắt đầu cải tổ mình để tham gia? Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải có một chiến lược phát triển mang tính dài hạn hơn và chính chiến lược đó sẽ giúp cho chúng ta có một hướng đi đúng đắn”, ông Dũng chia sẻ. 

Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam
Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam

Ông Dũng phân tích thêm, có ba trụ cột chính ảnh hưởng lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trên con đường này. 

Thứ nhất là năng lực quản trị. Doanh nghiệp cần có một tầm nhìn chiến lược mang tính dài hạn, có khả năng xây dựng được một bức tranh lớn ở trong tương lai chúng ta sẽ đi đâu, về đâu, như thế nào. Những kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn cần được thiết lập, và xây dựng những hệ thống quản trị để chúng ta có khả năng vận hành các hoạt động trong doanh nghiệp, đạt được mục tiêu mà chúng ta đặt ra. 

Thứ hai là năng lực công nghệ. Doanh nghiệp cần phải có khả năng nắm bắt những công nghệ mới, tiếp cận những công nghệ mới và có khả năng để gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩma, như vậy mới gia tăng được giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng mà chúng ta đang cung cấp cho toàn cầu. 

Thứ ba là con người. Trong bất kỳ một hoàn cảnh nào thì nhân lực chất lượng cao sẽ luôn luôn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ không thể có một hệ thống quản trị tốt, sẽ không thể tiếp cận những công nghệ mới nếu như năng lực của nhân sự của doanh nghiệp đó không đáp ứng được vấn đề này. 

“Cho nên doanh nghiệp Việt Nam trên con đường đổi mới thì có lẽ là cần phải chuyển mình. Cần phải đầu tư vào ba trụ cột này thì tôi nghĩ rằng khả năng thành công của chúng ta sẽ cao hơn”, ông Dũng cho biết.

Cùng với đó, các chuyên gia cũng đồng tình rằng phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, nên tiềm lực về kinh tế về nhà xưởng, nhân lực, tài chính yếu, trong khi chi phí đầu tư lĩnh vực này lớn, đòi hỏi dây chuyền thiết bị và công nghệ hiện đại.

Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam

Giải quyết điểm nghẽn

Để giải quyết những vấn đề này, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp Chu Việt Cường cho biết, hiện nay Bộ Công Thương đã và đang dự thảo nghị định mới về ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp chế tạo trong lĩnh vực điện, trong đó có những quy định hỗ trợ, ưu đãi nổi bật.

Một là, ưu đãi về thuế, ưu đãi về đất đai, tín dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện, sản xuất, nghiên cứu vật liệu mới về sản xuất pin hay công nghệ lưu trữ về năng lượng. 

Hai là, hỗ trợ nghiên cứu phát triển R&D và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo. 

Ba là, ưu tiên sử dụng các sản phẩm hay các thiết bị sản xuất nội địa trong các dự án mà có sử dụng vốn của nhà nước.

Bốn là, xây dựng các cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng để tạo một sự kết nối giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trung tâm kỹ thuật với khách hàng công nghiệp. 

“Khi được ban hành thì tôi nghĩ là nghị định này sẽ tạo nên một cú hích rất mạnh mẽ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ năng lượng trong chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Cường cho hay.

Ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương)

Bên cạnh đó, nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về tài chính, công nghệ, con người, thời gian tới Bộ Công Thương cũng tập trung vào bốn giải pháp chính.

Thứ nhất, xây dựng các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp về công nghiệp, quỹ đổi mới sáng tạo; phối hợp với hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức quốc tế để cấp các tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về đầu tư máy móc, đầu tư dây chuyền công nghệ.

Thứ hai, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa tiệm cận dần với các yêu cầu về kỹ thuật, trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp FDI.

Thứ ba, đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp thông qua việc liên kết giữa các trường, viện nghiên cứu và các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật như IDC hay IDCS trong miền Nam.

Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ số, chuyển đổi số, sản xuất thông minh vào trong việc phát triển, cải tiến quy trình sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như áp dụng, triển khai các hệ thống MES, ERP, quản trị số... 

“Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng không chỉ là yếu tố, yêu cầu tất yếu để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia mà còn là bước đi chiến lược để khẳng định là Việt Nam có thể làm chủ chuỗi giá trị công nghiệp công nghệ mới và tiến tới là sẽ đạt mục tiêu NetZero năm 2050. Với sự hỗ trợ của Nhà nước, sự thay đổi mạnh mẽ, chủ động từ doanh nghiệp và với nền tảng khoa học công nghệ từ các viện, trường nghiên cứu thì tôi tin rằng trong những năm tới Việt Nam sẽ vươn lên mạnh mẽ và tự tin hội nhập sâu với thế giới trong ngành năng lượng”, ông Cường nhấn mạnh.

Thy Thảo