Sản xuất sạch hơn – một yêu cầu cấp bách trong quá trình hội nhập

Ngày 7/9/2009 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định phê duyệt "Chiến lược sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp đến năm 2020". Quyết định này đã nêu ra những chỉ tiêu, lộ trình cụ thể và những dự

Những kết quả đạt được

Năm 1996 ở nước ta mới bắt đầu tiếp cận với SXSH, chậm hơn nước tiên tiến từ 10 đến 20 năm.  Năm 1998, Trung tâm sản xuất sạch Quốc gia được thành lập là đầu mối thúc đẩy và thực hiện sản xuất công nghiệp mang tính hiệu quả sinh thái thông qua SXSH, bao gồm cả công nghệ sạch. Chính Trung tâm Sản xuất sạch Việt nam đã cung cấp cho các nhà dịch vụ và doanh nghiệp công nghiệp các dịch vụ chất lượng cao như đánh giá SXSH, kỹ thuật tài chính, tư vấn công nghệ, đào tạo và thông tin... Bên cạnh việc tiếp nhận các dự án quốc tế về SXSH, hiện tại, Việt Nam đã có 20 đề tài cấp Nhà nước cùng với hàng ngàn xí nghiệp ở 40 tỉnh, thành đã áp dụng quy chế sản xuất sạch.

Trong những năm đổi mới và khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, các DN đã không ngừng phát triển và áp dụng SXSH. Cách đây ít năm, sau khi có Chỉ thị của Bộ Công nghiêp (cũ), các Tập đoàn, Tổng Công ty, Công ty, các Sở Công nghiệp đã mở rông việc nghiên cứu nội dung SXSH, phổ biến đến các cơ sở; chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện áp dụng SXSH; thường xuyên chỉ đạo tổ chức kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả việc áp dụng SXSH tại các cơ sở sản xuất công nghiệp. Có thể nói các doanh nghiệp áp dụng SXSH đã tác động đến quá trình sản xuất, đến sản phẩm và dịch vụ. Trong quá trình SXSH, các doanh nghiệp hiểu rằng chưa có điều kiện về tài chính để thay đổi công nghệ thì SXSH chỉ cần cải tiến quản lý trong nội bộ nhà máy như tránh thất thoát và rò rỉ nguyên vật liệu, xây dựng hệ thống thải khép kín, loại  trừ các nguyên liệu độc hại, giảm số lượng và tính chất độc hại của  các chất thải ngay tại nguồn thải. Đối với sản phẩm: SXSH bao gồm việc thiết kế lại sản phẩm để có thể giảm thiểu lượng tài nguyên tiêu thụ, giảm các ảnh hưởng tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm ngay từ khâu thiết kế đến thải bỏ. Đối với dịch vụ: SXSH dựa vào các yếu tố về môi trường trong thiết kế và phát triển các dịch vụ. Thực tế áp dụng SXSH ở các nhà máy, xí nghiệp của ngành hóa chất, ngành giấy và nhiều ngành khác đã làm giảm nguyên liệu tiêu thụ, tiết kiệm năng lượng, nước và giảm chất thải. Việc xử lý chất thải kể cả về số lượng lẫn chất độc hại khi áp dụng SXSH bằng cách ngăn chặn từ đầu vào sẽ ít tốn kinh phí hơn. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn đầu gần 30 doanh nghiệp khi áp dụng SXSH đều giảm được từ 20% - 30% lượng chất thải, tiết kiệm được trên 2 tỷ đồng/năm. Ở Đồng Nai, Nhà máy supe phốt phát Long Thành, Nhà máy hóa chất Biên Hòa, Nhà máy cao su Xuân Lập đã tham gia tích cực chương trình SXSH. Sau khi ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, ở nhà máy cao su Xuân Lập mỗi tấn mủ thành phẩm đã giảm được hơn 2m3  nước, 2 lít dầu DO, gần 1kg hóa chất và 10kW điện. Với công suất là 17.000 tấn mủ cao su, SXSH đã đem lại cho nhà máy nhiều lợi ích về kinh tế, nước thải ra không còn mùi hôi thối.

 Hợp phần “SXSH trong công nghiệp” nằm trong  Chương trình Hợp tác phát triển Việt Nam - Đan Mạch, giai đoạn 2006-2010, với sự tham gia của 5 tỉnh: Phú Thọ, Thái Nguyên, Nghệ An, Quảng Nam, Bến Tre và 8 bộ, ngành liên quan, kết quả bước đầu cũng minh chứng cho lợi ích về kinh tế, về môi trường. Riêng tại tỉnh Phú Thọ đã có một số doanh nghiệp tích cực triển khai áp dụng SXSH nhiều năm liền đạt hiệu quả cao, như: Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao, Công ty Giấy Việt Trì, Công ty Giấy Lửa Việt, Giấy Bãi Bằng, dệt Vĩnh Phú, xi măng Hữu Nghị, bia Viger, dệt Trí Đức... Công ty Cổ phần xi măng Phú Thọ tham gia SXSH từ năm 2007, thực hiện 17 giải pháp với nguồn vốn tự đầu tư 1,3 tỷ đồng, kết quả lượng điện tiêu thụ giảm 6%, tương đương với lượng cắt giảm 1.300 tấn khí CO2 và 5 tấn bụi than. Công ty CP giày Vĩnh Phú áp dụng 22 giải pháp, tiết kiệm được 317 triệu đồng/năm, giảm 11,5 tấn chất thải rắn và 5%  lượng điện tiêu thụ , cải thiện được môi trường làm việc.

 Ở Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng, Bình Dương triển khai các giải pháp SXSH đối với các ngành gốm sứ, chế biến mủ cao-su, giấy tái sinh, chế biến thủy sản, thép, dệt nhuộm...cũng đạt nhiều kết quả khả quan. Cục Bảo vệ môi trường nhận xét: việc triển khai SXSH tại các DN trong thời gian qua cho thấy hiệu quả rõ ràng và dễ dàng xác định hơn nhiều so với việc áp dụng các giải pháp quản lý môi trường khác. Hầu hết các DN khi áp dụng SXSH đều giảm được từ 20% -30% lượng chất thải, riêng các DN vừa và nhỏ tiết kiệm được trên 2 tỉ đồng/năm.

Theo Ngân hàng Thế giới, ngành Công nghiệp nước ta đang nằm trong nhóm đứng cuối thế giới về hiệu suất sử dụng năng lượng. Kết quả nghiên cứu nhiều ngành công nghiệp như nhựa, sành sứ, xi măng cho thấy nếu áp dung biện pháp SXSH, tiết kiệm năng lượng trong ngành Công nghiệp có thể đạt tới trên 20- 30%, có thể giảm bớt chi phí tới 10.000 tỷ đồng/ năm.

 

            Triển vọng SXSH của nước ta

Trong khi áp dụng rộng rãi SXSH trong công nghiệp, nhiều DN đầu tư công nghệ sạch, nguyên liệu sạch cho sản xuất, để quá trình sản xuất  ít sinh ra  hoặc không sinh ra chất thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ đầu nguồn. Nhiều DN của Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng Viglacera đã lựa chọn nguyên liệu sạch, công nghệ sạch cho ra  đời các sản phẩm cao cấp được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Công ty CP ống sợi thủy tinh Vinaconex, Công ty CP vật tư ngành nước Viwapico sản xuất ống dẫn nước sạch và ống nhựa chất lượng cao...

 Thủ tướng đã đặt ra các lộ trình “sạch hóa” các cơ sở sản xuất công nghiệp từ nay đến năm 2015 và từ năm 2016 - 2020. Cụ thể,  từ nay đến năm 2015 sẽ có 25% cơ sở áp dụng kỹ thuật SXSH; các cơ sở áp dụng tiết kiệm được từ 5-8% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu trên đơn vị sản phẩm; 70% các Sở Công Thương có cán bộ chuyên trách đủ năng lực hướng dẫn áp dụng SXSH cho các cơ sở sản xuất công nghiệp. Từ năm 2016 đến năm 2020, sẽ có 50% cơ sở áp dụng và mức tiết kiệm năng lượng; nguyên, nhiên, vật liệu đạt 8-13% đơn vị sản phẩm. Trong thời gian này, 90% doanh nghiệp vừa và lớn có bộ phận chuyên trách về SXSH; 90% các Sở Công Thương có cán bộ chuyên trách đủ năng lực hướng dẫn về vấn đề SXSH.

Để đạt mục tiêu trên, 5 dự án lớn sẽ được các bộ, ngành, địa phương phối hợp triển khai từ nay đến năm 2020. Đó là các dự án về nâng cao nhận thức, năng lực; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu và trang thông tin điện tử; hỗ trợ kỹ thuật; hoàn thiện mạng lưới các tổ chức hỗ trợ sản xuất sạch; hoàn thiện cơ chế chính sách về tài chính để tăng cường áp dụng SXSH trong công nghiệp. Bên cạnh đó, nội dung SXSH được lồng ghép vào chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp; mạng lưới cấp giấy chứng nhận áp dụng SXSH trong công nghiệp cho các cơ sở sản xuất công nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện được xây dựng. Các viện nghiên cứu, trường đại học sẽ tăng cường liên kết với cơ sở sản xuất công nghiệp trong việc nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các công nghệ phục vụ SXSH trong công nghiệp. Nhà nước hỗ trợ tín dụng đối với các dự án SXSH trong công nghiệp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường phục vụ SXSH trong công nghiệp…