Sản xuất sạch hơn-Một đòi hỏi cấp bách ở ngành Giấy

Sản xuất giấy là ngành công nghiệp đứng hàng thứ 10 ở nước ta. Theo kế hoạch đến năm 2010 sẽ có sản lượng 1.380.000 tấn giấy các loại đáp ứng 85 - 90% nhu cầu giấy của xã hội. Để thực hiện mục tiêu nà

Nguyên nhân từ công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ và phân tán...

Thứ nhất, khác với nhiều ngành công nghiệp, ngành công nghiệp sản xuất giấy ở nước ta có mức độ ô nhiễm cao, dễ gây tác động đến môi trường sống và con người. Bởi lẽ đây là ngành công nghiệp sản xuất tổng hợp, đa ngành và sử dụng một khối lượng nguyên liệu khá lớn. Quy trình sản xuất giấy có hai công đoạn: nấu bột giấy và tẩy trắng bột giấy, trong đó quá trình tẩy trắng bột giấy gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất vì sử dụng nhiều nước, nhiều Clo và các hợp chất của nó. Điều đáng chú ý là trong quá trình tẩy trắng bột giấy, hợp chất Clo sử dụng bao nhiêu sau quá trình phân hủy, tẩy trắng bột giấy thì lại thải ra bấy nhiêu vì chưa có công nghệ tái sử dụng Clo. Quá trình nấu bột giấy luôn thải ra các hợp chất ở dạng lỏng chứa lưu huỳnh, đồng thời thải ra khí SO2, H2S, Sunfua...

Thứ hai, sản xuất giấy dễ gây ô nhiễm môi trường là công nghệ sản xuất giấy còn lạc hậu, đa số các nhà máy, xí nghiệp giấy có quy mô sản xuất nhỏ. Các cơ sở này đều sản xuất giấy theo phương pháp kiềm không có thu hồi hóa chất nên khó cải thiện chất lượng, giá thành cao và gây ô nhiễm môi trường. Toàn ngành có 1.500 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất giấy nhưng chỉ đếm trên đầu ngón tay những doanh nghiệp có quy mô sản xuất từ 50.000-100.000 tấn/năm, gần một nửa doanh nghiệp có công suất từ 1.000-10.000 tấn/năm, còn lại có quy mô trung bình dưới 1.000 tấn/năm, đó là chưa kể những lò giấy thủ công của các hộ gia đình. Điều đó gây nhiều khó khăn trong việc xử lý chất thải.

Ở các nhà máy lớn có công nghệ tiên tiến, có hệ thống xử lý chất thải được đầu tư bài bản thì lượng nước thải, chất thải khi đưa ra ngoài đã đáp ứng được các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, ở các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, phân tán, thì chưa giành nhiều đầu tư cho vấn đề này. Hiện nay cả nước chỉ có hơn 10% doanh nghiệp sản xuất giấy có hệ thống xử lý nước thải, khí thải đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép, còn lại hầu hết các doanh nghiệp chưa xây dựng hệ thống đúng tiêu chuẩn, hoặc chưa có. Chính điều đó dẫn tới tình trạng nước thải ra môi trường còn nhiều chất độc hại cao và cao gấp hàng chục lần so với tiêu chuẩn cho phép, như: chất rắn lơ lửng (SS), ôxy sinh hoá (BOD), ôxy hoá học (COD), hoặc kim loại nặng, dịch đen (lignin), phẩm màu, xút, Clo là những chất có độc tính gây nguy hại cho sinh thái và có nguy cơ gây ung thư, rất khó phân huỷ trong môi trường. Ngoài ra còn dẫn đến tình trạng lãng phí nguyên liệu từ tre, nứa, gỗ, các loại hóa chất, nước ngọt, nhiên liệu và năng lượng... Để sản xuất ra một tấn giấy thành phẩm, ở nước ta tuỳ theo công nghệ các nhà máy phải sử dụng khoảng 2 tấn gỗ, 100-500 m3 nước, 100kg Clo và các hợp chất... Đây là thực trạng các doanh nghiệp ngành Giấy đang phải đối đầu và tìm biện pháp xử lý

Sản xuất sạch hơn mang lại hiệu quả cho ngành Giấy

Cách đây hơn 10 năm các doanh nghiệp sản xuất giấy ở nước ta đã tiếp cận với mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH). Các giải pháp SXSH không chỉ đơn thuần là thay đổi thiết bị, công nghệ mà còn là thay đổi trong cách vận hành và quản lý doanh nghiệp. Các giải pháp SXSH được chia thành các nhóm nhằm giảm chất thải tại nguồn, cải tiến sản phẩm, tận thu và tái sử dụng chất thải, tạo ra các sản phẩm phụ và tiết kiệm nguyên liệu. Đến nay, đã có nhiều doanh nghiệp sản xuất giấy tham gia mô hình SXSH đạt kết quả đáng khích lệ.

Có thể kể một vài ví dụ tiêu biểu: Năm 2003, Nhà máy Giấy Bãi Bằng đã đầu tư công nghệ tiên tiến phục vụ xử lý chất thải. Gần 20.000 m3 nước thải mỗi ngày mà nhà máy thải ra, đều được thu gom và xử lý triệt để qua hệ thống xử lý tập trung theo cả hai phương pháp hóa học và sinh học. Chất lượng nước thải sau khi xử lý đạt yêu cầu bảo vệ môi trường. Công ty Giấy Việt Trì, Giấy Lửa Việt, Giấy Bãi Bằng, đã tham gia dự án trình diễn SXSH trong công nghiệp của Hợp phần SXSH trong công nghiệp (CPI), thời gian triển khai từ tháng 7/2005 đến hết năm 2010. Những kết quả thu được trong cách quản lý, vận hành sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, cải thiện môi trường làm việc cũng đang được nhân rộng. Theo Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam, chỉ tính trên 9 doanh nghiệp sản xuất giấy và bột giấy tham gia chương trình SXSH, đã tiết kiệm hàng năm từ nguyên liệu, than, dầu FO, nước sạch tổng cộng là trên 10 tỷ đồng, trong khi tiền vốn đầu tư cho SXSH chỉ là 3,3 tỷ đồng với thời gian hoàn vốn ngắn dưới 1 năm. Đáng chú ý là 9 doanh nghiệp tham gia mô hình SXSH trong quá trình sản xuất đã giảm khối lượng nước thải hơn 1.800.000 m3/năm; lượng khí CO2 giảm gần 6.000 tấn/năm.

Công ty Giấy Đồng Nai đã vận hành và chuyển đổi công nghệ sản xuất giấy, quyết định ngưng hoạt động phân xưởng Bột, Hóa chất, Thu hồi kiềm, là những phân xưởng phát sinh nguồn ô nhiễm lớn về khí thải, nước thải. Công ty còn lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện tại lò đốt, thay đổi nồi cầu nấu bột bằng nồi đứng, giảm được chất thải rắn. Hiện nay, Tổng công ty Giấy (Vinapaco) đang áp dụng các biện pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, giảm chi phí, hạ giá thành và hoàn thiện quản lý theo ISO 9001-2000. Trong 5 năm từ 2003 đến 2008, Vinapaco đã chi gần 400 tỷ đồng và dự định sắp tới đầu tư gần 3.500 tỷ đồng xử lý các biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết vấn đề môi trường, thực hiện sản xuất sạch ở các phân xưởng và bảo dưỡng kiểm định thường xuyên các hệ thống thiết bị máy móc. Mới đây Tổng Công ty Giấy Việt Nam đang xây dựng một dây chuyền công nghiệp mới sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh fitohoocmôn. Với dây chuyền này, các chất phế thải có nguồn gốc thực vật dùng để làm giấy sẽ được sản xuất thành phân vi sinh, dùng để bón cho các cây nguyên liệu giấy, cây ăn quả, rau mầu.

Sản xuất sạch hơn đối với ngành Giấy hiện nay là nhu cầu cấp bách, để phát triển bền vững, đảm bảo sản lượng hàng năm và đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường. Việc đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoàn thiện công nghệ bột hóa nhiệt cơ, cải tiến công nghệ nấu sunfat, ứng dụng công nghệ dung môi hữu cơ, loại bỏ dần tiến tới công nghệ tẩy trắng không sử dụng Clo là cần thiết. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các dự án nhà máy ứng dụng công nghệ tiên tiến, sản xuất sạch; Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện các giải pháp hoàn thiện các hệ thống thu gom, tái chế, tái sử dụng chất thải, hạn chế chất thải, đồng thời thực hiện việc kiểm toán môi trường theo quy định.