Một nghiên cứu được tiến hành trong năm 2005 cho thấy hồ chứa nước nằm cạnh thành phố Balangoda khoảng 160 km về phía đông nam của thủ đô Colombo rò rỉ nước liên tục với tốc độ 1.800 lít nước mỗi giây. Mặc dù Sri Lanka đã dùng nhiều phương pháp như dùng 13.640 tấn xi măng để gia cố đập và bịt lỗ rò với 50.000 mét khối đất sét nhưng đã không thành công.
Vấn đề là các nhà địa chất và kỹ sư không biết là nước rò từ chỗ nào. Công ty tư vấn kỹ thuật Anh Atkins Global đã thực hiện một cuộc khảo sát sơ bộ tại đập này và khu vực xung quanh trong 3 tuần trong tháng Giêng năm nay. Họ sử dụng công nghệ Aqua Track do Draper, Công ty Willowstick Technologies, có trụ sở ở bang Utah, Mỹ phát kiến ra. Dự án xử lý rò rỉ nước của đập thuỷ điện Samanalwewa có tổng chi phí khoảng 3 triệu USD để làm khảo sát bổ sung, tìm ra việc rò rỉ để phun vữa vào bịt kín lỗ rò rỉ. Dự kiến, công việc bịt lỗ sẽ thực hiện trong đầu năm sau.
Công nghệ Aqua Track sẽ được thực hiện như sau: Hai điện cực mỗi cái dài khoảng 1 mét được cắm xuống, một cái cắm vào lòng hồ chứa nước và cái kia cắm ở phía bên dưới đập (thường thì cắm vào chỗ trũng hoặc phía dưới hạ lưu đập). Mỗi điện cực được nối với nhau bằng một dây dẫn điện. Khi người ta cho dòng điện chạy qua, sẽ tạo ra một chập mạch lớn. Bởi vì nước ngầm là một chất dẫn điện, dòng điện chạy qua giữa hai điện cực, tạo ra một trường nam châm. Trường nam châm được đo đạc trên bề mặt bằng một máy đo nam châm nhạy.
Khi trường nam châm được tạo ra, các nhà khoa học của Willowstick cho hai điện cực giao nhau theo kiểu mạng lưới với một dụng cụ đo thu nhận những dữ liệu về tần số từ dưới ngầm phát lên (các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến dãy tần số 380 hertz mà điện cực của Aqua Track phát ra). Dụng cụ được chứa trong một hộp có chiều cao 1 mét, đáy vuông 15 x 15 cm và giữ thẳng đứng bằng một giá đỡ 3 chân. Dụng cụ này thu nhận hàng nghìn dữ liệu chỉ trong vòng 5 phút. Công nghệ này đã được áp dụng thành công ở một số đập, trong đó có đập số 3 của hồ chứa trên sông Little Colorado ở bang Arizona và đập Wolfcreek ở trên sông Cumberland tại miền nam Kentucky.
Dòng phát ra từ trường với tần số 380 hertz truyền vào bất kỳ mạch nước ngầm nào, bởi vì nước là chất dẫn điện tốt nhất trong lòng đất. Lượng bão hoà càng lớn thì từ trường càng lớn, từ trường này phát lên phía trên mặt đất và được ghi lại bằng những dụng cụ đo của Willowstick. Những thông tin thu lượm được tích nạp vào máy tính tại các cơ sở của Willowstick, tại đây các nhà khoa học bám theo đường vẽ chỉ tần số 380 hertz để xác định ra đường đi cuả mạch nước ngầm.
Các công ty Mỹ sử dụng Aqua Track để tìm ra rò rỉ đập cũng như xác định mực độ và vị trí của mạch nước ngầm mà các công ty này có thể đã gây ô nhiễm. Nếu một công ty sở hữu hoặc một Mỏ phát hiện ra là đã làm ô nhiễm mạch nước ngầm ở địa phương, Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ sẽ yêu cầu điều tra việc bị ô nhiễm nước ngầm ở những nơi đó.
Bằng cách tạo ra những sơ đồ dòng lý thuyết trong một môi trường mô hình hoá, các nhà khoa học có thể tạo ra những trường nam châm lý thuyết. Rồi họ mô hình hoá những sơ đồ dòng lý thuyết này cho tới khi trường lý thuyết khớp với dữ liệu thu được tại hiện trường. Khi sử dụng công nghệ tìm ra rò rỉ đập, các kỹ sư nhận biết được một cách chính xác khả năng ở đâu họ cần khoan để đổ bê tông vào (trong trường hợp dậm rò rỉ) hoặc lấy mẫu nước để tìm đường đi của nước bị ô nhiễm.
Công nghệ Aqua Track được lập để chứng tỏ khả năng của công nghệ MRI giống như tia phóng xạ được sử dụng để xác định vấn đề sức khoẻ trong cơ thể con người .