Khái quát về hệ thống chính sách thu hút công nghệ, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam
Khái niệm chuyển giao công nghệ được nhiều tổ chức quốc tế coi là “chuyển giao và tiếp nhận công nghệ qua biên giới thông qua thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài hoặc chuyển giao và tiếp nhận tự giác hay không tự giác (học tập, hội thảo khoa học, tình báo kinh tế...)”.
Đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển, con đường nhanh nhất và ngắn nhất để thu hẹp khoảng cách đối với các nước phát triển là thu hút công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, trong đó kênh quan trọng nhất là qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với xuất phát điểm thấp, Việt Nam đã chú trọng đến việc thu hút chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để tận dụng ưu thế của nước đi sau, tiếp cận ngay được những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Song hành với Luật Đầu tư nước ngoài ban hành năm 1987, Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988. Đây được coi là một dấu mốc quan trọng trong việc hình thành chính sách nhập khẩu, chuyển giao công nghệ của Việt Nam. Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ luôn được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn: (i) Năm 1995, quy định về chuyển giao công nghệ được đưa vào thành một Chương trong Bộ Luật Dân sự (Phần thứ VI Chương III); (ii) năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ; (iii) năm 2008, Quốc hội thông qua Luật công nghệ cao (iiii) năm 2017, Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ 2017 (thay thế cho Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006).
Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 (Khoản 5 Điều 3) quy định về Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó có nội dung: “Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước; chú trọng lan tỏa công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước”.
Trong năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt nhằm thu hút đầu tư FDI có chọn lọc với nhiều mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp khi doanh nghiệp FDI đáp ứng các mức chuyển giao công nghệ. Cụ thể, nhà đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 7% trong 33 năm nếu đáp ứng chuyển giao công nghệ mức 1; và hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 5% trong 37 năm nếu đáp ứng chuyển giao công nghệ mức 2.
Đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ với những quy định cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nói riêng.
Để thực hiện chính sách thu hút công nghệ cao vào Việt Nam, đặc biệt là thu hút dự án FDI vào những lĩnh vực công nghệ cao, nhằm phát huy vai trò động lực trong chính sách công nghệ, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chính sách ưu đãi với mức hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Điều này thể hiện ở việc Nhà nước đã áp dụng mức ưu đãi cao nhất trong các Luật hiện hành của Việt Nam đối với các dự án ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, Luật Đầu tư quy định doanh nghiệp công nghệ cao là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư; hoạt động công nghệ cao là ngành, nghề ưu đãi đầu tư và khu công nghệ cao là địa bàn ưu đãi đầu tư. Điều này thể hiện sự nhất quán trong hoạch định chính sách về đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ cao, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam.
Một số thành tựu đạt được trong hoạt động chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài
Đối với tất cả các nước đang phát triển, FDI là nguồn lực quan trọng để thu hút vốn, công nghệ nhằm tăng cường năng lực công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Vai trò này được thể hiện ở hai khía cạnh chính là tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào và nghiên cứu, cải tiến phát triển công nghệ, thích nghi, phù hợp với điều kiện thực tế, nâng cao năng lực công nghệ trong nước. Đây là mục tiêu quan trọng mà nước tiếp nhận FDI luôn hướng đến. Đồng thời, thông qua các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp FDI tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Với cách thức gián tiếp này, nước tiếp nhận đầu tư sẽ dần tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ (R&D) của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Trong chặng đường 35 năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thông qua các dự án FDI, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định trong việc tiếp nhận công nghệ phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh, từng bước nâng cao trình độ công nghệ sản xuất trong nước. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến của thế giới như: Bưu chính - viễn thông, ngân hàng, dầu khí, xây dựng, giao thông, cầu đường,... Việt Nam đã sản xuất được nhiều sản phẩm mới mà trước đây chưa có; hạn chế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực như dầu khí, vật liệu xây dựng, điện tử gia dụng, phương tiện giao thông. Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã, kiểu dáng đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và gia tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu như máy tính, điện thoại thông minh, hàng điện tử gia dụng, cơ khí chế tạo,....
Do sức ép cạnh tranh ngày càng tăng từ doanh nghiệp FDI, nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư nhập thiết bị và công nghệ mới, lập bộ phận hoặc trung tâm R&D để nâng cao năng lực công nghệ. Kết quả là doanh nghiệp trong nước trong một số ngành, lĩnh vực đã tự chủ sản xuất được các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, thay thế hàng nhập khẩu với giá cả hợp lý, được người tiêu dùng trong nước ưu tiên sử dụng và từng bước xâm nhập thị trường thế giới.
Dầu khí và truyền thông là hai ngành kinh tế nhờ chuyển giao công nghệ và R&D gắn với dự án FDI nên đã phát triển với tốc độ nhanh, hiện đại, tiến kịp trình độ khu vực và thế giới. Cụ thể, các hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí đều có nội dung chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật, chính vì vậy Tập đoàn Dầu khí Việt Nam không những làm chủ được nhiều công nghệ hiện đại và phức tạp trong hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa của nước ta mà còn có năng lực về công nghệ và nhân lực tham gia một số liên doanh ở nước ngoài.
So với 35 năm trước, ngành truyền thông Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, bắt đầu từ hợp tác với một số doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông và áp dụng cơ chế cạnh tranh; nhiều công nghệ hiện đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng cáp quang, công nghệ GSM và CDMA, đặc biệt là công nghệ 4G đã được các doanh nghiệp viễn thông áp dụng rộng rãi tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Một số công nghệ mới đang được tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm như 4,5G (LTE-A) và tiến tới là 5G để đưa vào ứng dụng. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh, thương mại điện tử tăng nhanh, Việt Nam đã triển khai thành công một số hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông với hai cường quốc lớn là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trong lĩnh vực công nghệ cao, việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào 3 khu công nghệ cao Quốc gia, trong đó Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được kết quả khả quan. Sau 20 năm thành lập, đến nay Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã có khoảng 130 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 7 tỷ USD với sự hiện diện của những Tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như Intel, Microsoft, Nidec, Sanofi, Nipro, Samsung,... Đặc biệt, việc Samsung đưa vào hoạt động một trung tâm R&D với số vốn đầu tư hàng trăm triệu đô la đã khẳng định được hướng đi đúng đắn của Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, hiện đang có hàng trăm doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin (1 trong 4 lĩnh vực ưu tiên theo Luật Công nghệ cao) hoạt động trong các khu Công nghệ thông tin tập trung.
Mặc dù số lượng các doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất sản phẩm còn tương đối khiêm tốn trong tổng số dự án có vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhưng những kết quả đạt được trong thời gian qua đã dần khẳng định quyết tâm của Chính phủ cam kết tạo môi trường hấp dẫn, điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư để Việt Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các Tập đoàn đa quốc gia.
Một số hạn chế trong thu hút công nghệ, chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài
Nhìn nhận một cách khách quan, đầu tư nước ngoài đã góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam, công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án FDI đã từng bước làm thay đổi trình độ công nghệ của nhiều ngành, lĩnh vực, tuy nhiên, kết quả đạt được chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Công nghệ chuyển giao vào Việt Nam phần lớn có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở trong nước, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực, phần lớn chưa được xếp vào hàng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hiện tại chúng ta vẫn là một nước có trình độ công nghệ hết sức khiêm tốn trong bảng xếp hạng thế giới, Việt Nam vẫn đứng trong hàng ngũ những nước có nền công nghiệp trung bình, năng lực công nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Phần lớn các hợp đồng chuyển giao công nghệ được đăng ký tại cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ tập trung vào chuyển giao quy trình công nghệ, bí quyết công nghệ (73%), trợ giúp kỹ thuật (77%), đào tạo (71%), trong khi đó chuyển giao công nghệ bao gồm đối tượng sở hữu công nghiệp chiếm số lượng không nhiều (13%).
Các doanh nghiệp nắm giữ công nghệ nguồn, công nghệ cao thực hiện đầu tư tại Việt Nam chưa nhiều. Một số dự án FDI còn tập trung vào lắp ráp, gia công với tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị tạo ra tại Việt Nam không cao, điều này dẫn đến sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước chưa được như mong muốn.
Việc tiếp thu học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý của cán bộ Việt Nam trong quá trình hợp tác với nước ngoài chưa đạt được như mong muốn. Đặc biệt là việc tiếp thu, khai thác ứng dụng công nghệ hầu như chỉ được trong phạm vi của các dự án FDI, doanh nghiệp đầu tư vào R&D còn rất hạn chế, chưa tương xứng với những ưu đãi được nhận.
Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chuyển giao công nghệ là có nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu kỹ năng, chưa đáp ứng được với yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là trong một số ngành đòi hỏi kỹ năng, tay nghề cao. Chính vì vậy, cần có giải pháp chủ động hơn trong việc tiếp nhận kiến thức, kỹ năng qua chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, tại một số địa phương, năng lực thẩm định các dự án FDI còn hạn chế nên chưa thu hút được các công nghệ cao, hiện đại kèm theo việc chuyển giao công nghệ.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa việc các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ khi đầu tư vào Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả khai thác các lợi ích từ dòng vốn này, Việt Nam cần chú trọng thực hiện một số giải pháp, đề xuất như sau:
Một là, xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại, xoá bỏ các hàng rào bảo hộ giữa các quốc gia và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các công nghệ thế hệ mới là hai nhân tố mới sẽ tác động mạnh mẽ tới các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, mở ra cơ hội và thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp và cơ quan quản lý, hoạch định chính sách.
Làn sóng đổi mới công nghệ diễn ra với tốc độ cao song hành với hội nhập và tự do hoá thương mại toàn cầu sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, buộc các doanh nghiệp phải đánh giá lại mô hình kinh doanh; cải tiến phương thức cung cấp sản phẩm, dịch vụ; đặc biệt phải không ngừng đổi mới công nghệ để thích ứng với các thay đổi của thị trường. Chính từ bối cảnh đó, tư duy hoạch định chính sách về đầu tư, chuyển giao công nghệ cũng cần được đổi mới để có thể bắt nhịp được với các thay đổi không ngừng của đời sống công nghệ, với làn sóng công nghệ mới, công nghệ cao có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia.
Hai là, để có thể tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về năng lực cạnh tranh của Việt Nam, vốn và công nghệ vẫn là yếu tố then chốt. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, húng ta vẫn cần phải tập trung thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và có giá trị gia tăng cao. Chúng ta không thể thụ động, trông chờ từ nhà đầu tư nước ngoài mà cần phải chủ động tìm kiếm, lựa chọn những doanh nghiệp, Tập đoàn đa quốc gia sở hữu công nghệ nguồn, công nghệ lõi, đồng thời Nhà nước phải xây dựng được chính sách xúc tiến đầu tư hệ thống và bài bản, đi cùng với ưu đãi đủ mạnh về chuyển giao công nghệ để có thể thu hút đầu các Tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư lớn.
Ba là, Nhà nước có kế hoạch dài hạn và đồng bộ cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động đến các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo mối liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước, hấp thụ lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sang khu vực doanh nghiệp trong nước, qua đó doanh nghiệp trong nước có cơ hội đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của mình.
Năm là, xây dựng cơ chế ưu đãi đủ mạnh đối với các nhà đầu tư thành lập các cơ sở R&D tại Việt Nam. Để thực hiện thành công thu hút vốn, thu hút công nghệ qua đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2020-2030, không chỉ có sự nỗ lực của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ mà cần sự đồng thuận, thống nhất từ trung ương đến địa phương, cũng như sự phối hợp của các Bộ, ngành có liên quan, hướng đến một chính sách đầu tư thế hệ mới, trong đó thu hút vốn và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời phải trên cơ sở cân bằng được lợi ích của nhà đầu tư với lợi ích quốc gia.
PVN đã làm chủ nhiều công nghệ hiện đại nhờ chuyển giao công nghệ
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã áp dụng các phần mềm xử lý và minh giải tài liệu địa chấn, mô hình hóa và mô phỏng mỏ, thiết kế khai thác, công nghệ khai thác của các hãng Schlumberger, Landmark, GeoQuest… đạt được hiệu quả kinh tế cao.
PVN ứng dụng công nghệ sinh học và hoá học để nâng cao hệ số thu hồi dầu trong khai thác thứ cấp ở các mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông, Sư Tử Đen. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga đã nghiên cứu, sáng tạo công nghệ khai thác các thân dầu trong đá móng granitoit trước Đệ Tam ở mỏ Bạch Hổ bể Cửu Long, góp phần duy trì sản lượng khai thác hàng năm của PVN, để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đóng góp quan trọng vào lý thuyết khoa học dầu khí thế giới.
Nhà máy Đạm Phú Mỹ của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) và Nhà máy Đạm Cà Mau của Công ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) đã tiếp nhận những công nghệ thuộc loại tiên tiến nhất thế giới hiện nay.