Cao su Dầu Tiếng tạo dệt niềm tin - làm nên kỳ tích

Việt Nam hiện là nước đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su trên thế giới, sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Cao su Việt Nam xuất khẩu chiếm tới 90% sản lượng, hiện đang có mặt tại 40 nước trên thế giới v

PV: Được biết, Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng là một trong những đơn vị đi đầu về hoạt động SXKD trong ngành Cao su Việt Nam.Ông có thể cho biết những hoạt động nổi bật của Công ty trong những năm qua? 

Ông Trần Văn Du: Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng hoạt động chủ yếu là trồng, khai thác, chế biến xuất khẩu cao su… Cùng với đó, Công ty còn mở rộng đầu tư các dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải, dự án đầu tư hạ tầng khu dân cư, khu công nghiệp… với tổng giá trị đầu tư trên 570 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty còn tham gia góp vốn cổ phần tại các công ty trong ngành Cao su Việt Nam cũng như đầu tư, tham gia cổ phần trồng cao su ở nước Lào và Campuchia… Năm 2011, Dầu Tiếng đã trồng tái canh được 1.600 ha và dự kiến, sau khoảng 5 năm sẽ cho thu hoạch. Hiện nay, Công ty đang quản lý 29.800 ha cao su, cùng với 3 nhà máy chế biến là: Nhà máy Bến Súc, Nhà máy Phú Bình và Nhà máy Long Hòa. Ba nhà máy này được trang bị đầy đủ thiết bị và công nghệ hiện đại, đã đưa công suất chế biến từ 4.000 tấn năm 1990 lên 46.000 tấn. 

PV: Chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp, nhất là đối với một doanh nghiệp đã tạo dựng được tên tuổi. Ở Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng, vấn đề này được coi trọng như thế nào? 

Ông Trần Văn Du: Cùng với việc SXKD, Công ty luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Từ năm 1999, Công ty đã triển khai công tác quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9002:1994 và nay là ISO 9001:2008. Phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm của Công ty được cấp chứng chỉ công nhận đạt ISO/IEC 17025:2005 và hiện Công ty đang gấp rút triển khai các công việc cần thiết để được cấp chứng nhận ISO 14001:2004 vào năm 2012. Cùng với việc kiểm định chất lượng gắt gao, sản phẩm của Cao su Dầu Tiếng cũng được đa dạng hóa với 14 chủng loại cao su đạt chất lượng cao, không chỉ tiêu thụ rộng rãi tại thị trường nội địa mà còn được xuất khẩu sang 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: Trung Quốc, Singapore, Nhật, Đài Loan, Malaysia… Trong suốt quá trình phát triển, Cao su Dầu Tiếng đã phát huy được truyền thống anh hùng của các thế hệ công nhân trong suốt chiều dài lịch sử hơn 90 năm qua, và đã ghi nhiều thành quả quan trọng, góp phần xây dựng ngành công nghiệp cao su Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Từ diện tích ban đầu 4.000 ha, đến nay diện tích cao su của Công ty đã tăng lên 29.800 ha; năng suất từ 0,65 tấn/ha (năm 1990) lên hơn 2 tấn/ha năm 2010; tổng doanh thu năm 2010 là 2.850 tỷ, tăng 237 lần so với năm 1990. Tuy nhiên, năm 2011 thời tiết không được thuận lợi, khiến ngành Cao su gặp không ít khó khăn, nhưng Công ty đã chuẩn bị được nguồn phân bón tốt, cùng với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để chăm sóc, ứng phó kịp thời với thời tiết và sâu bệnh, nên đã cho doanh thu cao. Tính đến hết tháng 11/2011, Công ty đã khai thác, chế biến được gần 33.618,58 tấn, đạt 88,40% kế hoạch năm; tiêu thụ được 33.305,64 tấn, đạt 87,58% kế hoạch năm; tổng doanh thu 11 tháng đạt 3.560 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế đạt 1.800 tỷ đồng; nộp ngân sách đạt 560 tỷ đồng, ước cả năm khoảng 600 tỷ đồng. 

PV: Văn hoá doanh nghiệp và đời sống của người lao động là việc làm không tách rời với SXKD, Công ty Cao su Dầu Tiếng đã quan tâm và triển khai như thế nào, thưa ông? 

Ông Trần Văn Du: Song song với phát triển hoạt động SXKD, Cao su Dầu Tiếng còn dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác dựng xây văn hóa doanh nghiệp, chăm lo đời sống CBCNV-LĐ, cũng như đóng góp tích cực cho công tác an sinh xã hội. Trong những năm qua, Công ty đã tổ chức cho gần 12.000 lượt công nhân tham gia các lớp tập huấn, cử hơn 100 CBCN đi học đại học, thường xuyên mở và duy trì các lớp bổ túc văn hóa. Hiện tại, Công ty có 4 lớp bổ túc văn hóa với hàng trăm học viên theo học. Nhờ vậy, trình độ tay nghề của công nhân được nâng lên rõ rệt. Nhờ vậy, năng suất cao su ngày càng gia tăng, đời sống CBCN ngày càng được cải thiện. Năm 2011, lương bình quân của CBCN đã đạt khoảng 8,5 triệu đồng/người/tháng, tăng 48 lần so với năm 1990. Từ năm 1994 đến nay, Công ty đã hỗ trợ cho hơn 7 ngàn hộ công nhân được vay tiền không tính lãi, với số tiền lên gần 66 tỷ đồng từ quỹ phúc lợi để mua vật tư làm nhà ở, và hơn 6 tỷ đồng hỗ trợ cho công nhân làm kinh tế gia đình. Về phúc lợi xã hội, trong 30 năm, Công ty đã đầu tư gần 66 tỷ đồng cho hoạt động y tế, gần 30 tỷ đồng cho hoạt động của hệ thống nhà trẻ mẫu giáo. Đầu tư gần 130 tỷ đồng để xây dựng, sửa chữa nâng cấp các công trình phúc lợi công cộng và tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Với những nỗ lực này, đời sống CBCN từng bước được cải thiện nâng lên, gần 100% hộ công nhân đã có điện lưới sử dụng; tỷ lệ hộ khá đã tăng lên và chiếm đến hơn 80%, không còn hộ nghèo ở công nhân. 

Trong 30 năm qua, ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa phương để giải quyết một phần về áp lực nhu cầu lao động tại địa phương, Công ty Cao su Dầu Tiếng luôn gắn bó và hỗ trợ một phần không nhỏ về kinh phí để cùng địa phương làm tốt công tác an sinh xã hội. Công ty đã hỗ trợ xây dựng được hơn 300 nhà tình nghĩa, gần 200 nhà tình thương và phụng dưỡng suốt đời 18 Mẹ Việt Nam Anh hùng. 

PV: Đặc thù của ngành khai thác cao su là phải lấy mủ vào ban đêm, nếu không được quản lý tốt dễ dẫn đến thất thoát và nảy sinh tiêu cực. Bên cạnh đó là việc sản xuất dễ gây ảnh hưởng tới môi trường nếu không được đầu tư công nghệ máy móc hiện đại. Vậy, Công ty đã có những biện pháp gì về 2 vấn đề này, thưa ông? 

Ông Trần Văn Du: Đúng vậy, việc thất thoát là không tránh khỏi. Nhưng, chúng tôi đều có những chính sách đãi ngộ tốt với người công nhân. Từ đó, ý thức của họ được nâng lên và tự quản lý lẫn nhau, cùng với đội ngũ an ninh được đầu tư bài bản để quản lý, nên việc thất thoát là không đáng kể. Cùng với việc sản xuất, nhưng vấn đề môi trường với người dân cần được quan tâm, nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, với phương châm “Phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường”, ngay từ những ngày đầu, Cao su Dầu Tiếng đã thành lập nguồn nhân lực trong công tác bảo vệ môi trường từ cấp quản lý đến các nhà máy, nông trường, đơn vị trực thuộc… và luôn xem đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo xây dựng được một hệ thống quản lý môi trường vững mạnh. Đặc biệt, từ tháng 04/2010, Công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải chế biến mủ tạp công nghệ hiện đại, công suất thiết kế 1.600 m3/ngày đêm, với số vốn đầu tư rất lớn. Trong đó, công trình xử lý nước thải nhà máy chế biến Phú Bình được xây dựng theo công nghệ xử lý hóa lý kết hợp sinh học, do Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Phát triển Công nghệ mới Việt Nam - Nhật Bản thi công. Từ đó đến nay, ba nhà máy chế biến mủ cao su của Công ty đã được đầu tư hệ thống xử lý nước thải theo đúng qui định và nâng cấp theo tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường của Việt Nam. Do đó, việc vận hành hoạt động của các nhà máy này luôn đảm bảo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 

Bên cạnh đó, tất cả nhà máy chế biến của Cao su Dầu Tiếng đã ứng dụng chuyển đổi sử dụng khí đốt LPG, thay thế dầu DO đốt lò sấy. Công ty cũng đã trồng nhiều cây xanh phủ kín khu vực sản xuất, tạo một môi trường xanh-sạch-đẹp, thông thoáng, lành mạnh với phương châm “Sức khỏe người lao động là trên hết”. 

PV: Để chuẩn bị cho việc SXKD năm 2012 và các năm tiếp theo, Công ty đã có những định hướng gì trong lĩnh vực này, thưa ông? 

Ông Trần Văn Du: Trong thời gian tới, bên cạnh việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật và các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường quy định của hệ thống ISO 9001:2008 và ISO 14001:2004, Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng sẽ tiếp tục nghiên cứu, đầu tư và áp dụng các tiến bộ của khoa học trong bảo vệ môi trường về ngành cao su vào sản xuất, chế biến mủ cao su đảm bảo việc bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. Luôn nâng cao việc tiết kiệm năng lượng và nguyên vật liệu thông qua các hoạt động cải tiến liên tục về quy trình, công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường. Đồng thời, không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm về công tác bảo vệ môi trường đối với toàn thể CBCNV trong Công ty; duy trì tốt các hoạt động đã có, đẩy mạnh các phong trào thực hành tiết kiệm, tích cực vận động và tạo điều kiện cho CNVC-LĐ làm kinh tế gia đình tăng thu nhập, đảm bảo việc làm và từng bước cải thiện, nâng cao đời sống cho CBCNV-LĐ; đóng góp vào ngân sách và an sinh xã hội. 

PV: Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!