Những năm gần đây sản phẩm dệt may của Thái Bình có nhiều chuyển biến tích cực và có tốc độ tăng khá nhanh. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp mới đạt 1.151 tỷ đồng, chiếm 19,9% trong giá trị sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh thì đến năm 2012 là 8.089,1 tỷ đồng, chiếm 29,4%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 là 42,5%, giai đoạn 2010-2012 đạt 9,4% (do ảnh hưởng thảm hoạ kép tại Nhật Bản và khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu). Tuy nhiên từ cuối năm 2012 trở lại đây ngành dệt may đang phục hồi khá nhanh và đang có chiều hướng phát triển mạnh.
Trước đây giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may của tỉnh Thái Bình còn nhỏ, từ 2005 trở lại đây do số dự án đầu tư dệt may tăng nhất là dự án đầu tư nước ngoài làm cho kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng đáng kể và trở thành ngành có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của tỉnh. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 91,213 triệu USD, đến năm 2012 là 541,217 triệu USD, chiếm tỷ trọng 71,8% giá trị xuất khẩu của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 37,1%; giai đoạn 2010-2012 là 23,9%. Đây là một trong những sản phẩm có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhanh nhất.
Thị trường xuất khẩu dệt may rất đa dạng và phong phú. Hiện có nhiều thị trường nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam, trong đó Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản là 3 quốc gia nhập khẩu chủ yếu. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ năm 2012 tăng rất mạnh. Đây là yếu tố rất thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may trong tỉnh cũng như cả nước.
Phát triển ngành dệt may của Thái Bình đã thu hút được số đông lao động, đặc biệt những năm gần đây các dự án đầu tư ngành dệt may tăng nên số lao động tăng đáng kể. Tổng số lao động dệt may tập trung tại các doanh nghiệp năm 2012 là 56.382 người, chiếm 41,9% lao động công nghiệp toàn tỉnh, trong đó lao động nữ chiếm khoảng 80%. Bên cạnh đó còn giải quyết nhiều việc làm vệ tinh tại khu vực nông thôn.
Về đầu tư trang thiết bị, công nghệ cho sản phẩm dệt may những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhóm sản xuất sợi đều đầu tư các máy móc, thiết bị, công nghệ mới, hiện đại của thế giới; Nhóm dệt khăn, dệt vải trừ một số doanh nghiệp đầu tư máy dệt hiện đại còn lại chủ yếu thiết bị cổ truyền, lạc hậu tại các làng nghề; Nhóm may mặc, trừ các doanh nghiệp đã đầu tư trước đây, còn lại đều sử dụng máy may, máy chuyên dùng có chất lượng cao, hiện đại, nhất là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Dệt may có nhiều đóng góp ngân sách cho tỉnh, tổng thu ngân sách sản phẩm dệt may năm 2012 đạt 78,6 tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng thu ngân sách của các doanh nghiệp trong toàn tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 là 39,5%, giai đoạn 2010-2012 là 20,5%.
Những năm qua sản phẩm dệt may đã góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên sự phát triển sản phẩm dệt may, đặc biệt là sản phẩm dệt có các công đoạn tẩy, nhuộm đã gây tác động xấu đến môi trường và ảnh hưởng đến đời sống dân sinh. Đây là bài toán khó không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cơ quan quản lý nhà nước, mặc dù thời gian qua tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt về xử lý môi trường ở những nơi bị ô nhiễm nặng, nhưng đến nay vẫn chưa có giải pháp xử lý triệt để.
Xu hướng ngành dệt may thế giới đang phát triển theo hướng tiếp tục tăng về giá trị gia tăng; hình thành các trung tâm sản xuất lớn của thế giới (Trung Quốc, TBIP, ASEAN) và thời trang lên ngôi. Như vậy trong thời gian tới ngành dệt may Việt nam có nhiều cơ hội là nằm trong 3 trung tâm của dệt may thế giới, là điểm đến của các nhà đầu tư quốc tế, lợi thế lao động rẻ, địa chính trị - lợi thế so với nước Asean; đặc biệt khi Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dưông (TPP) được ký kết đó vừa là cơ hội vừa là thách thức khó khăn đối với sản phẩm dệt may của Việt Nam nói chung và Thái Bình nói riêng. Chính vì vậy từ thực trạng và dự báo xu thế phát triển, định hướng phát triển cho sản phẩm dệt may của Thái Bình đến năm 2020 như sau:
* Về sản phẩm sợi: Tập trung đầu tư cho ngành sản xuất sợi, xô sợi, phục vụ cho sản xuất trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh việc duy trì sản xuất sợi theo phương pháp hiện nay cần tập trung đầu tư sản xuất sợi xô ngắn chỉ số cao, sợi xô dài (sợi chải kỹ), sợi len mịn và sợi hóa học phục vụ các nhu cầu sử dụng dân dụng và công nghiệp.
- Định hướng thu hút đầu tư: Tiếp tục đầu tư chiều sâu, duy trì sản xuất có hiệu quả và đầu tư mở rộng các dự án hiện có; Ưu tiên dự án đầu tư có thiết bị, công nghệ hiện đại, dự án sản xuất sợi xô dài (sợi chải kỹ), sợi hóa học, sợi cho dệt vải phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Định hướng không gian: Thu hút đầu tư vào trong các khu, cụm công nghiệp;
* Quần áo may sẵn: Tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, xây dựng phát triển mạnh thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm của các dự án đã đầu tư. Đồng thời kêu gọi đầu tư dự án may sản phẩm chất lượng cao. Nâng cao giá trị xuất khẩu hàng FOB nhằm giảm tỷ lệ gia công, tăng giá trị xuất khẩu. Phấn đấu đến 2020, trên địa bàn tỉnh có trung tâm thiết kế mẫu, đồng thời hình thành và hỗ trợ phát triển trung tâm nguyên, phụ liệu ngành may. Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư các dự án lớn, đặc biệt là các dự án về may đồng bộ. Đồng thời tập trung vào thiết kế mẫu mã, ưu tiên phát triển hàng hóa thương hiệu Việt và khuyến khích doanh nghiệp chuyển sản xuất sang phương thức mua nguyên liệu bán sản phẩm. Từng bước hình thành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất phụ kiện cho sản phẩm may. Phát triển mạnh sản xuất công nghiệp hỗ trợ để chủ động trong việc nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị, phụ tùng chuyên ngành.
- Định hướng sản phẩm: Tập trung vào các sản phẩm như áo sơ mi, áo Complet, Jacket, quần áo thể thao, quần áo trẻ em, v.v... Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, tăng tỷ trọng các sản phẩm chất lượng cao, hàng cao cấp.
- Định hướng thu hút đầu tư: Ưu tiên thu hút các dự án sản xuất hàng FOB; các dự án xuất khẩu trực tiếp có gia trị gia tăng cao; Khuyến khích các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp phụ trợ cho ngành may: móc áo, gim cài, cúc áo, mex không dệt, chỉ, nhãn, băng chun, khóa kéo, v.v...
- Định hướng không gian: Tập trung thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp và khu vực nông thôn nơi gần nguồn lao động.
* Sản phẩm dệt (dệt vải, dệt khăn): Đầu tư chiều sâu, nhanh chĩng thay thế các thiết bị công nghệ cũ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng. Kết hợp với đầu tư mới, mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để có thể cung cấp cho may mặc và xuất khẩu. Tập trung đầu tư phát triển khâu tẩy nhuộm hoàn tất. Khâu tẩy nhuộm và hoàn tất cần được qui hoạch vào một số địa điểm nhất định để thuận lợi cho khâu cung cấp nước và xử lý nước thải. Duy trì và phát triển các làng nghề dệt truyền thống, có giải pháp hỗ trợ để giải quyết vấn đề môi trường cho các làng nghề dệt sản phẩm xuất khẩu.
- Định hướng dự án đầu tư: Ưu tiên các dự án có thiết bị, công nghệ hiện đại. Tập trung thu hút các dự án quy mô lớn, các dự án sản xuất khép kín gồm: kéo sợi, dệt vải, tẩy nhuộm, hoàn tất sản phẩm; Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt tự đầu tư hoặc vận động, thu hút các nhà đầu tư vệ tinh cung cấp nguyên, phụ liệu đến đầu tư tại Thái Bình.
- Định hướng không gian: Tập
trung thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp và các làng nghề dệt truyền thống
* Sản phẩm thêu: Trước đây phát triển khá tốt và tham gia vào mặt hàng xuất khẩu của tỉnh. Đây là ngành phục vụ cho ngành may và phát triển tại một số làng nghề truyền thống. Tuy nhiên hiện nay nghề thêu đang có xu hướng suy giảm, do thu nhập nghề thêu thấp. Trong thời gian tới, việc phát triển các làng nghề thêu cần được ưu tiên tại các làng nghề hiện có nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng của địa phương về một ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, từ đó thúc đẩy các làng nghề thêu phát triển bền vững, lâu dài, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Định hướng sản phẩm: các sản phẩm truyền thống như áo Kimono, hàng đai, khăn, phong thiếp, túi xách, v.v...
- Định hướng không gian: tập trung chủ yếu tại xã Minh Lãng và một số xã lân cận của huyện Vũ Thư.
* Sản phẩm giày dép: hiện chưa có dự án đầu tư trực tiếp vào tỉnh, mà hầu hết là các công ty ở Hà Nội, Hải Phịng thành lập công ty "con" ở Thái Bình để sản xuất và chủ yếu làm gia công, chưa có sản phẩm cao cấp. Định hướng phát triển sản phẩm này là duy trì các cơ sở sản xuất hiện và đầu tư thêm một số dự án sản xuất giày, dép cao cấp phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Quy hoạch lấy trung tâm thành phố Thái Bình tập trung làm dịch vụ, cung cấp nguyên phụ liệu, công nghệ mẫu mốt, tập trung doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm giầy dép có giá trị gia tăng cao và hình thành một trung tâm xúc tiến thương mại và phát triển thời trang giầy dép, đồ da.
- Định hướng không gian: Thành phố Thái Bình, các khu, cụm công nghiệp.