Trước đây, Làng Xuân La có trên 600 lao động thường xuyên theo nghề nặn tò he, ngày nay tuy số lượng người tham gia làm nghề có ít đi, nhưng địa bàn hoạt động của làng nghề ngày càng mở rộng. Ngoài ra, còn có hàng trăm lao động làm theo thời vụ, họ có mặt khắp mọi miền của tổ quốc để hành nghề. Nơi nào có sự xuất hiện tò he là thì chính người làng nghề Xuân La có mặt ở đó, họ không chỉ mang giá trị thẩm mỹ, giá trị tinh thần tới cộng đồng mà còn góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp đặc sắc của một loại hình nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Làng Xuân La, từ các ông, bà tóc bạc đến những em bé chưa biết đọc, biết viết đã biết nặn tò he. Người trong làng tự truyền nghề cho nhau, nhưng họ có một nguyên tắc là chỉ truyền cho con trai và con dâu. Hơn nữa, trong làng có rất nhiều dòng họ: Ðặng, Nguyễn, Vũ, Lê, Chu, Trịnh... mà họ nào cũng biết nặn tò he. Vì thế, chức danh ông tổ làng nghề đến nay vẫn chưa xác định được từ dòng họ nào mang về. Nhưng tất cả các dòng họ tại Xuân La đều xứng đáng được công nhận là tổ sư của làng nghề.
Nguyên liệu làm tò he rất đơn giản, tỷ lệ pha 2 phần gạo nếp và 8 phần gạo tẻ trộn lẫn nhau, ngâm nước rồi đem xay nhuyễn, luộc bột chín và nhào nhanh tay, rồi nắm bột thành từng vắt và đem đi pha màu. Ngày xưa khi phẩm màu công nghiệp còn khan hiếm, người làng nghề đã biết lấy quả, củ, lá cây để làm màu. Ngày nay, do phẩm màu công nghiệp nhiều và giá rẻ, người làng nghề đã quay sang sử dụng ngày một nhiều hơn.
Người làng Xuân La mang tò he đến khắp các làng quê Việt Nam trong những ngày lễ hội, mùa xuân, nông nhàn, để bán những sản phẩm mình làm ra, nhìn chung làm tò he là nghề mang tính “thời vụ”. Để mở rộng và phát triển nghề, nhiều người trong làng nghề đã rời nhà lên thành phố, vào miền Trung, miền Nam để lập nghiệp. Đến với những miền đất hứa, đối với họ thì đó là mảnh đất rất màu mỡ, song cũng gặp không ít khó khăn. Ban đầu người làng nghề phải gây dựng “thương hiệu” cho mình, bằng việc kiên trì nặn tò he và đem đến các công viên, khu vui chơi, giải trí để bán. Với phương châm “mưa dầm thấm lâu”, cuối cùng loại hình nghệ thuật dân gian tò hè đã làm siêu lòng biết bao thế hệ mỗi khi tận mắt chứng kiến quá trình nặn tò he của các người thợ.
Ông Nguyễn Văn Định, người có hơn 40 năm gắn bó với nghề tâm sự: “Nặn tò he không dễ, muốn đào tạo được một người biết nặn tò he thành thục thì cần mất một năm, đó là còn tuỳ thuộc vào năng khiếu của người đó. Nhưng khi làm được rồi thì người thợ sẽ thổi hết hồn vào trong đó, xem đó là những đứa con tinh thần rất thiêng liêng”. Trước đây, Nghệ nhân Nguyễn Văn Thuận khi còn sống đã được Nhà nước tạo điều kiện sang Mỹ 2 năm làm nghề và sau đó là nhiều lần sang Nhật Bản nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. Đó là vinh dự của người làng nghề Xuân La, tiếng thơm đó nay vẫn còn lưu giữ tại phòng trưng bày truyền thống của làng nghề.
Tò he có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với thanh thiếu niên, trẻ em và đặc biệt những người khó tính nhất khi nhìn thấy tò he cũng phải trầm trồ khen ngợi. Chỉ cần ít bột nếp, một que tre nhỏ dài chừng 40 cm, dưới bàn tay tài hoa của những người thợ, họ đã nặn ra hàng trăm, hàng ngàn hình hài tò he khác nhau, từ bông hoa, loài vật, cho đến con người. Ngày nay, khi mà mọi nhu cầu của con người từ ăn, ngủ, chơi... đều hướng theo tiêu chí “nhanh - tiện - gọn” thì khó có trò chơi nào mà trẻ em vừa được chơi, lại vừa được hồi hộp chứng kiến cảnh đăm chiêu nặn tò he của các bác thợ. Cho nên, trong khi thị trường tràn ngập những đồ chơi đắt tiền, hiện đại thì tò he vẫn là thứ đồ chơi mà trẻ em yêu thích.
Tò he là loại nghệ thuật dân gian độc đáo, vừa mang vẻ đẹp bản sắc văn hoá dân tộc, vừa mang tính khoa học, nó có tầm quan trọng trong cuộc sống, học tập, vui chơi giải trí và rèn luyện tính thẩm mỹ cho con người.
Tuy nhiên, hiện nay người dân làng nghề vẫn chưa tìm ra được nguyên liệu thay thế cho bột gạo, nên việc bảo quản và thời hạn sử dụng tò he là rất ngắn (7 đến 15 ngày). Được biết, đã có rất nhiều nghệ nhân làng nghề mày mò pha chế ra các nguyên liệu mới hy vọng thay thế cho bột gạo, nhưng đều bị thất bại và gần đây, đã có ba cuộc hội thảo bàn về việc tìm nguyên liệu thay thế cho bột gạo để không chỉ “kéo dài tuổi thọ” cho tò he, mà còn tạo cơ hội “mang” tò he đi xuất khẩu, song đến nay cũng chưa đi đến đoạn kết…
Thiết nghĩ, để nghề tò he phát triển tốt thì cần phải có định hướng phát triển lâu dài như gắn kết các chủ cơ sở nặn tò he khắp cả nước để bao tiêu sản phẩm; lập hệ thống cửa hàng tại các khu, trung tâm vui chơi, giải trí đông người; từng bước xây dựng thành điểm du lịch làng nghề; quan trọng là tìm ra nguyên liệu thay thế bột gạo để bảo quản tò he được lâu hơn; đồng thời, Nhà nước, Thành phố cần quan tâm đầu tư, bảo tồn và phát triển mạnh loại hình nghệ thuật, văn hoá dân gian độc nhất vô nhị của Việt Nam.
Xem tiếp bài: Nghề đan cỏ tế ở Phú Túc
http://www.tapchicongnghiep.vn/congnghieponline/khuyencong/2009/10/22641.ttvn