Liên tục trong hơn hai năm qua nước ta chịu tác động bất lợi và phức tạp của kinh tế thế giới. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; với sự nỗ lực cố gắng và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và sự hưởng ứng đồng thuận của toàn dân nên kinh tế-xã hội nước ta bước đầu đã vượt qua được một số khó khăn, thách thức, lạm phát được kiềm chế, sản xuất được ưu tiên đầu tư phát triển, các mục tiêu an sinh xã hội tiếp tục đạt kết quả tốt, giữ vững ổn định chính trị.
I. Đánh giá bổ sung kết quả năm 2008
Ngày 29/12/2008 Tổng cục Thống kê đã có Báo cáo đánh giá tổng hợp tình hình kinh tế-xã hội năm 2008, trong đó số liệu tháng 12/2008 là số liệu ước tính. Sau khi cập nhật thêm thông tin, Tổng cục Thống kê đánh giá lại một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của năm 2008 như sau:
(1). Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Sản lượng lúa cả năm đạt 38,7 triệu tấn (số liệu ước tính tháng 12/2008 là 38,63 triệu tấn); sản lượng sắn đạt 9,4 triệu tấn (số liệu tháng 12/2008 là 9,1 triệu tấn); sản lượng cà phê đạt 1055,8 nghìn tấn (số liệu tháng 12/2008 là 996,3 nghìn tấn). Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh tăng 6% so với năm 2007, trong đó nông nghiệp tăng 6% (số liệu tháng 12/2008 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 5,6%; trong đó nông nghiệp tăng 5,4%).
(2). Công nghiệp: Tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp so với năm 2007 giảm từ 14,6% xuống 13,9%, trong đó tốc độ tăng của ngành công nghiệp chế biến giảm từ 16% xuống 15,3%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước giảm từ 13,4% xuống 11,7%.
(3). Xuất, nhập khẩu hàng hoá: Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu cả năm 2008 đạt 62,7 tỷ USD, giảm 221 triệu USD so với ước tính ban đầu, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 80,7 tỷ USD, tăng 298 triệu USD, nhập siêu cả năm 2008 là 18 tỷ USD, tăng 26,8% so với mức nhập siêu năm 2007 và bằng 28,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu (số liệu ước tính tháng 12/2008 nhập siêu 17,5 tỷ USD, tăng 24,1% so với năm 2007 và bằng 27,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu).
(4).Tổng sản phẩm trong nước (GDP): GDP năm 2008 theo giá so sánh 1994 đạt 489,8 nghìn tỷ đồng, tăng 6,18% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,07%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,11%; dịch vụ tăng 7,18% (số liệu ước tính tháng 12/2008 GDP theo giá so sánh đạt 490,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; dịch vụ tăng 7,2%).
II. Tình hình kinh tế-xã hội quý I năm 2009
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2009 ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,5%; khu vực dịch vụ tăng 5,4%. Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,1 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,7 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,3 điểm phần trăm.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quý I/2009 ước tính tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm nông nghiệp giảm 0,1%; lâm nghiệp tăng 2,5%; thuỷ sản tăng 3,9%.
a. Nông nghiệp
Tính đến 15/3/2009 cả nước đã gieo cấy được 2986 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 102,6% cùng kỳ năm trước. Đến trung tuần tháng 3/2009, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 770,5 nghìn ha lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 62,7 tạ/ha, giảm 1,7 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 9,7 triệu tấn, giảm 1,3%. Sản lượng cây vụ đông đạt thấp so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngô bằng 58,4%; khoai lang bằng 71%; đậu tương bằng 33,2%; lạc bằng 67,9%; rau đậu bằng 85,9%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định, trong quý I/2009, đàn bò cả nước ước tính tăng 1% so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn tăng 3%; đàn gia cầm tăng 6%. Tính đến ngày 18/3/2009, cả nước có 5 tỉnh có dịch cúm gia cầm là: Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Ninh và Điện Biên; 3 tỉnh có dịch lở mồm long móng là: Bắc Kạn, Kon Tum và Nghệ An; 3 tỉnh có dịch tai xanh chưa qua 21 ngày là: Bạc Liêu, Quảng Ninh và Quảng Nam.
b. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung quý I năm 2009 cả nước ước tính đạt 25,3 nghìn ha, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 494 nghìn m3, tăng 2%. Tính chung 3 tháng đầu năm 2009, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 489 ha, tăng 77% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 244 ha, tăng 68,2%.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản quý I/2009 ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá tăng 4,9%; tôm tăng 3,1%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng quý I/2009 ước tính giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước do giá thức ăn của thuỷ sản tăng cao và thị trường tiêu thụ ngoài nước có xu hướng bị thu hẹp. Diện tích nuôi thả cá tra, cá ba sa giảm trên 20%, diện tích nuôi thả tôm sú giảm trên 8%. Sản lượng thủy sản khai thác quý I/2009 ước tính tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển tăng 9,8%.
3. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp quý I/2009 tăng 2,1% so với quý I/2008, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước giảm 3,2%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,9% (dầu mỏ và khí đốt tăng 13,1%, các sản phẩm khác tăng 1,5%). Trong các ngành sản xuất, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến quý I/2009 tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, ga, nước tăng 3,6%; công nghiệp khai thác mỏ tăng 6,1%.
Nhìn chung trong quý I/2009, sản lượng nhiều sản phẩm công nghiệp giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó thép tròn giảm 3,3%; máy giặt giảm 8,9%; thủy hải sản chế biến giảm 12%; xe máy giảm 12,7%; dầu thực vật giảm 14,5%; điều hòa nhiệt độ giảm 15,1%; phân hóa học giảm 22,1%; xe chở khách giảm 33,7%; vải dệt từ sợi bông giảm 38,3%; giấy, bìa giảm 39,2%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm vẫn giữ được mức tăng ổn định như: Dầu thô khai thác tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2008; bia tăng 10,4%; xi măng tăng 10%; sữa bột tăng 7,9%; xe tải tăng 7,4%; thuốc lá điếu tăng 6,6%.
Sản xuất công nghiệp của một số địa phương đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung của cả nước là: Thanh Hóa tăng 9,6%; Hải Phòng tăng 6,9%; Cần Thơ tăng 6,7%; Đồng Nai tăng 6,6%; Hà Nội tăng 5,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 5,6%; Khánh Hòa tăng 5,4%; Bình Dương tăng 4%. Một số địa phương có tốc độ giảm hoặc tăng thấp như: Phú Thọ giảm 19,7%; Vĩnh Phúc giảm 17,6%; Đà Nẵng giảm 13,8%; Hải Dương giảm 6,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,9%; Quảng Ninh tăng 0,4%.
4. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện của cả nước quý I/2009 ước tính tăng 9% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm vốn khu vực Nhà nước tăng 20%; vốn khu vực ngoài Nhà nước tăng 30%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 32%. Vốn đầu từ ngân sách Nhà nước đạt 17,8% kế hoạch năm, bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý đạt 20,2%; vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 16,8%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/3/2009 đạt 6 tỷ USD, giảm 40,1% so với cùng kỳ năm 2008, gồm có: Vốn đăng ký mới 2,2 tỷ USD của 93 dự án được cấp phép (giảm 72,2% về dự án và giảm 69,7% về vốn so với cùng kỳ năm trước) và 3,8 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 34 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước.
5. Thu chi ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/3/2009 ước tính bằng 18,5% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 19,2%; thu từ dầu thô bằng 16,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 18,4%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 24,3% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 14,3% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 18,8% dự toán năm; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 16,7%; thu phí xăng dầu bằng 21,1%; thu phí, lệ phí bằng 13,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2009 ước tính bằng 16,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 16,5% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 15,9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 19,2%; chi trả nợ và viện trợ bằng 16,3%.
6. Thương mại, giá cả, dịch vụ
a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2009 ước tính tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm kinh doanh thương nghiệp tăng 23,5%; khách sạn nhà hàng tăng 15,8%; du lịch tăng 16,8%; dịch vụ tăng 13,5%. Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2009 tăng 6,5% so với quý I/2008, thấp hơn mức tăng 11% của cùng kỳ năm trước.
b. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2009 ước tính đạt 13,5 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,6 tỷ USD, tăng 40,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) đạt 4,5 tỷ USD, giảm 13%. Nếu không tính 2,3 tỷ USD tái xuất vàng thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu quý I/2009 đạt 11,2 tỷ USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I/2009, một số mặt hàng nông sản vẫn đạt mức xuất khẩu tăng cao so với quý I/2008 như: Gạo đạt 1,7 triệu tấn, tăng 71,3% và kim ngạch đạt 785 triệu USD, tăng 76,2%; hạt tiêu tăng 64,5% về lượng và tăng 15,5% về kim ngạch; chè tăng 10,2% về lượng và tăng 10,5% về kim ngạch; rau quả tăng 2,6% về kim ngạch; cà phê tuy giảm 7,1 về kim ngạch do giá giảm nhưng tăng 21,4% về lượng. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng dệt may đạt 1,9 tỷ USD, giảm 0,1%; giày dép đạt 915 triệu USD, giảm 10,8%; thủy sản đạt 714 triệu USD, giảm 10,4%; cà phê đạt 634 triệu USD, giảm 7,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 527 triệu USD, giảm 22,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 496 triệu USD, giảm 12,8%; than đá đạt 262 triệu USD, giảm 1,4%; dầu thô tuy đạt 4,3 triệu tấn, tăng 22,4% về lượng nhưng kim ngạch chỉ đạt 1,4 tỷ USD, giảm 45,5% do giá bình quân giảm 55%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I/2009 ước tính đạt 11,8 tỷ USD, giảm 45% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 7,5 tỷ USD, giảm 50,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,3 tỷ USD, giảm 32,4%. Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng quý I/2009 đạt 2,4 tỷ USD, giảm 30,2% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu giảm 17,7% về lượng và giảm 60,2% về kim ngạch; sắt thép giảm 65% về lượng và giảm 71% về kim ngạch; phân bón giảm 16,5% về lượng và giảm 33,8% về kim ngạch; sợi dệt giảm 7,2% về lượng và giảm 28,7% về kim ngạch; ô tô nguyên chiếc giảm 71,2% về lượng và giảm 72,4% về kim ngạch; xe máy nguyên chiếc giảm 50,7% về lượng và giảm 34,7% về kim ngạch.
Xuất siêu quý I/2009 ước tính 1,6 tỷ USD, bằng 12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu loại trừ kim ngạch tái xuất vàng thì quý I/2009 nhập siêu 640 triệu USD, bằng 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
c. Giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 3/2009 giảm 0,17% so với tháng trước, trong đó: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,46% (Lương thực tăng 1,27%; thực phẩm giảm 1,55%); phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,55%; văn hóa, thể thao, giải trí giảm 0,12%. Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhẹ: Giáo dục tăng 0,09%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,19%; dược phẩm, y tế tăng 0,29%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,3%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,34%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,35%. Giá tiêu dùng tháng 3/2009 tăng 11,25% so với cùng kỳ năm 2008 và tăng 1,32% so với tháng 12/2008. Giá tiêu dùng bình quân quý I/2009 tăng 14,47% so với giá tiêu dùng bình quân quý I/2008.
d. Vận tải
Vận chuyển hành khách quý I/2009 ước tính tăng 6,8% về khối lượng vận chuyển và tăng 4,3% về khối lượng luân chuyển so với quý I/2008, trong đó vận tải đường bộ tăng 7,5% và tăng 8,2%; đường sông tăng 2,3 % và tăng 1,7%; đường biển tăng 3,2% và tăng 5,6%; đường sắt giảm 12,2% và giảm 12%; đường hàng không giảm 5,7% và giảm 3,8%.
Vận tải hàng hóa quý I năm 2009 ước tính giảm 0,1% về khối lượng vận chuyển và giảm 5,2% về khối lượng luân chuyển so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải đường bộ tăng 1,4% và giảm 0,3%; đường sắt giảm 28,1% và giảm 26,5%; đường hàng không giảm 4,7% và giảm 11,6%; đường sông giảm 2,6% và giảm 6,7%; đường biển giảm 1,7% và giảm 5,1%;
e. Bưu chính viễn thông
Phát triển điện thoại mới quý I/2009 ước tính đạt 7,3 triệu thuê bao, tăng 70,5% so với số phát triển mới của quý I năm trước (điện thoại cố định là 1 triệu thuê bao, tăng 47,4%), nâng số thuê bao điện thoại của cả nước tính đến cuối quý I/2009 là 86,8 triệu thuê bao. Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối quý I/2009 ước tính đạt 2,3 triệu thuê bao. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông quý I/2009 ước tính đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước.
f. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta quý I/2009 ước tính giảm 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng giảm 18,9%; đến vì công việc giảm 25,8%; thăm thân nhân giảm 1%. Khách đến bằng đường hàng không giảm 9,8% so với cùng kỳ năm 2008; đến bằng đường biển giảm 59,2%; đến bằng đường bộ giảm 37,5%.
Lượng khách từ Hoa Kỳ đến nước ta trong 3 tháng đầu năm 2009 ước tính tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ Ôx-trây-li-a tăng 4,8%; khách đến từ Ca-na-đa tăng 11,1%. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng lớn khách đến Việt Nam giảm so với cùng kỳ năm 2008 là: Trung Quốc giảm 23,6%; Hàn Quốc giảm 25,7%; Nhật Bản giảm 11,7%; Đài Loan giảm 11,6%.
7. Một số vấn đề xã hội
a. Đời sống dân cư
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, quy mô sản xuất trong nước bị thu hẹp dẫn đến tình trạng công nhân bị mất việc và thiếu việc làm tại nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ở khu vực nông thôn, nhờ vụ đông xuân 2008 được mùa, giá lúa tăng cao, giá vật tư đầu vào ổn định, các hợp đồng xuất khẩu gạo thực hiện thuận lợi đã góp phần cải thiện đời sống nông dân. Theo báo cáo của các địa phương, số hộ thiếu đói quý I/2009 trên cả nước là 202 nghìn lượt hộ với hơn 840 nghìn lượt nhân khẩu. So với quý I/2008, số lượt hộ thiếu đói giảm 28,3%; số lượt nhân khẩu thiếu đói giảm 28,8%. Từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 11,7 nghìn tấn lương thực và 36,6 tỷ đồng.
b. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, tính chung 2 tháng đầu năm 2009, số vụ tai nạn giao trên địa bàn cả nước giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước; số người chết giảm 1,6%; số người bị thương giảm 1,9%. Bình quân một ngày trong 2 tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông, làm chết 35 người và làm bị thương 24 người.
c. Giáo dục, đào tạo
Tính đến tháng 02/2009, cả nước có 41 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 47 tỉnh/thành phố được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đạt 85,5% mục tiêu đề ra của nghị quyết Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009.
Trong học kỳ I của năm học 2008-2009, số học sinh bỏ học trên cả nước chiếm 0,56% tổng số học sinh, trong đó tỷ lệ này ở cấp trung học phổ thông là 1,29%; cấp trung học cơ sở là 0,7% và cấp tiểu học là 0,13%. Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất, trong đó cấp tiểu học là 0,37%; trung học cơ sở 1,08% và trung học phổ thông 2,39%.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, số thí sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng hệ chính quy năm học 2008-2009 của cả nước đạt 97,4% chỉ tiêu đề ra, bao gồm các trường đại học đạt 95,5%; các trường cao đẳng đạt 99,9%; số học sinh nhập học vào các trường trung cấp chuyên nghiệp bằng 40% tổng số thí sinh đăng ký dự tuyển, đạt 77% chỉ tiêu đề ra.
d. Dạy nghề
Tính đến cuối năm 2008, cả nước có 2,3 nghìn cơ sở đào tạo nghề, bao gồm 93 trường cao đẳng nghề, 245 trường trung cấp nghề, 757 trung tâm dạy nghề và hơn 1 nghìn cơ sở đào tạo nghề. Sau hơn một năm thực hiện Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, tính đến cuối năm 2008, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân được 9,5 nghìn tỷ đồng, bao gồm 5 nghìn tỷ đồng trong năm học 2007-2008 và 4,5 nghìn tỷ đồng trong học kỳ I của năm học 2008-2009.
e. Tình hình dịch bệnh
Trong quý I/2009, cả nước có 5,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 11 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút và hơn 800 trường hợp ngộ độc thực phẩm. Trong tháng 3/2009, đã phát hiện 01 trường hợp nhiễm và tử vong do vi rút cúm A H5N1, nâng số trường hợp nhiễm bệnh tính từ đầu năm đến nay lên 04 trường hợp và đều đã tử vong. Số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 18/3/2009 là 181,8 nghìn người, trong đó 72,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 42,1 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta quý I/2009 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Sản xuất công nghiệp có xu hướng chững lại; mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường trong nước chậm; xuất, nhập khẩu hàng hoá bị giảm nhiều và thị trường xuất khẩu bị thu hẹp; tình trạng thiếu việc làm xảy ra tại một số khu công nghiệp và doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, chúng ta có thuận lợi cơ bản là sự ổn định chính trị, sự đoàn kết và nhất trí cao trong Đảng, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị nên nhiều chính sách và các nhóm giải pháp của Chính phủ đã phát huy tác dụng tích cực, kinh tế tăng trưởng khá, an ninh xã hội được bảo đảm, tạo tiền đề vật chất và tinh thần cũng như kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành cho những tháng tiếp theo của năm 2009.
Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong quý I/2009 và tính tới những thuận lợi, khó khăn của nền kinh tế từ nay đến cuối năm, có thể dự báo một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu cả năm 2009 như sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 4,8 -5,6%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4,6-6,1%; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 2,5-4,5%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 15-18%; kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đạt 56-58 tỷ USD; kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 63-65 tỷ USD; tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm là 7,7%; tỷ lệ hộ nghèo 12,2-12,4%.
Để đạt được các chỉ tiêu kinh tế-xã hội nêu trên, đồng thời chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, các ngành, các cấp, các địa phương cần tập trung mọi nỗ lực làm tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, các Bộ/ngành khẩn trương, tích cực xây dựng và triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp trọng tâm có liên quan để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhằm phát triển sản xuất, duy trì và tạo việc làm cho người lao động theo tinh thần Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; tập trung chỉ đạo quyết liệt để các đơn vị, nhất là các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty lớn thực hiện nghiêm những cam kết về chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2009, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của cả nước.
Có cơ chế chính sách tiền tệ, tài chính linh hoạt nhằm chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát tăng sau giai đoạn kích cầu. Tăng quyền chủ động cho các cấp, các ngành trong điều hành hoạt động kinh tế-xã hội của cả nước;
Hai là, tăng cường hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại nhằm khai thác, giữ vững thị trường đã có và mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường không yêu cầu quá cao về chất lượng hàng hoá; nghiên cứu kỹ các hiệp định, quy định của WTO để thực thi và xây dựng các chính sách phù hợp nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu, nhất là xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản mà nước ta có thế mạnh.
Ba là, đặc biệt quan tâm thị trường nội địa nhằm tạo ra cân đối cung, cầu hàng hóa với nhiều sản phẩm phù hợp về giá cả và chất lượng cho người tiêu dùng trong nước; khuyến khích các đơn vị sản xuất kinh doanh khẩn trương xây dựng và thực hiện chương trình đưa hàng hoá về nông thôn. Xây dựng và tổ chức tốt hoạt động màng lưới thương nghiệp để thu mua và cung cấp hàng hóa trên thị trường trong nước với giá hợp lý, không để hàng hoá tồn đọng.
Đẩy mạnh công tác quản lý thị trường nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình trạng buôn lậu, chống hàng gian, hàng giả; bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người tiêu dùng và nhà sản xuất; chống đầu cơ và lợi dụng các yếu tố không thuận để nâng giá;
Bốn là, triển khai thực hiện khẩn trương, hiệu quả, đảm bảo sự minh bạch, có kiểm tra, kiểm soát và kịp thời báo cáo đầy đủ kết quả các gói kích cầu tiêu dùng và kích cầu đầu tư; tận dụng thời cơ giảm giá của thế giới và trong nước để tăng cường đầu tư giao thông, thuỷ lợi, thay đổi thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ;
Năm là, khẩn trương xây dựng chính sách, đề án nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Thực hiện triệt để chủ trương thu mua, dự trữ các sản phẩm nông sản gặp khó khăn trong xuất khẩu để người sản xuất yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất. Triển khai các biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, trọng tâm là sản phẩm thức ăn chăn nuôi và giống cây, con. Đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch, bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Tăng cường công tác dự báo và phòng, chống thiên tai trong 9 tháng tiếp theo, đặc biệt là khi mùa mưa, bão sắp đến gần.
Sáu là, công tác an sinh xã hội phải được các cấp, các ngành và cả xã hội đặc biệt quan tâm; tổ chức triển khai thực hiện các chế độ, chính sách kịp thời, đúng đối tượng. Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo; khẩn trương triển khai đồng bộ đề án phát triển kinh tế-xã hội tại 61 huyện nghèo nhất của cả nước. Xây dựng chương trình kế hoạch tạo thêm việc làm, nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng hiện nay.
Kinh tế thế giới vẫn đang trong tình trạng suy thoái. Kinh tế nước ta đã hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế toàn cầu nên sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp và khó lường. Tuy nhiên, bên cạnh khó khăn và thách thức, kinh tế nước ta còn có thuận lợi và thời cơ, nhất là tiềm năng nội lực về sự ổn định chính trị-xã hội, về tài nguyên, đất đai, lao động và thị trường nội địa lớn 86 triệu dân chưa được khai thác đầy đủ. Với tinh thần quyết tâm phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, chắc chắn khó khăn sẽ từng bước được khắc phục, cả năm 2009 kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng với tốc độ tăng dự báo như trên. Từ đó cho thấy nền kinh tế nước ta sẽ là một trong những nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cả nước Tháng 02 năm 2009 (25/02)
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2009 và chỉ số giá (03/02)