Vai trò của công nghiệp hỗ trợ
Trong tiến trình phát triển công nghiệp, nhất là đối với một quốc gia đang dịch chuyển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam hiện nay, công nghiệp hỗ trợ có vai trò nền tảng đối với các ngành công nghiệp nói riêng cũng như đối với cả nền kinh tế nói chung. Vai trò nền tảng ấy được thể hiện ở các mặt sau:
Trước hết, công nghiệp hỗ trợ là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. CNHT là ‘bệ đỡ’ cho sự phát triển sản xuất công nghiệp, là nền tảng, cơ sở để sản xuất công nghiệp phát triển mạnh hơn. Chất lượng sản phẩm đầu ra cuối cùng của các sản phẩm công nghiệp phụ thuộc vào chất lượng của các sản phẩm chi tiết, linh kiện được sản xuất từ ngành công nghiệp hỗ trợ. Do vậy, nếu công nghiệp hỗ trợ kém phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng sẽ bị giới hạn trong một số ít các ngành.
Thứ hai, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ thường có xu hướng tập trung chuyên môn hóa vào các công đoạn hoặc chi tiết sản phẩm có thế mạnh, mặt khác các doanh nghiệp cũng đồng thời thực hiện hợp tác liên kết với nhau nhằm hoàn thiện, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Do sự chuyên môn hóa sâu, chuyên tâm vào lĩnh vực của mình và kết hợp với sự hợp tác hóa chặt chẽ nên sẽ tạo năng suất sản xuất và hiệu quả mới tăng lên.
Thứ ba, công nghiệp hỗ trợ chính là cơ sở để thực hiện hội nhập công nghiệp toàn cầu. Các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu trên thế giới ngày càng có vai trò chi phối, điều tiết và gần như quyết định với tầm ảnh hưởng rất rộng đến hệ thống kinh tế thế giới. Các nước đang phát triển, đi sau, cũng chịu sự chi phối, điều tiết này và không thể một bước phát triển vượt bậc, để đạt được sức mạnh ngang tầm mà cần phải có quá trình từng bước tương thích, hợp tác và hội nhập. Điều này chỉ có ngành công nghiệp hỗ trợ mới phát huy được vai trò đó.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ là một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong các sản phẩm của các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu thế giới của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu,... Công nghiệp hỗ trợ nhờ đó mà trở thành một bộ phận tham gia vào hệ thống sản xuất chuyên môn hóa quốc tế. Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ sẽ được nằm trong chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực cũng như toàn cầu.
Hội nhập quốc tế quan trọng hơn là hội nhập ở thượng nguồn, tức là phối hợp với nhau trong quá trình tham gia sản xuất linh kiện, để tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Công nghiệp hỗ trợ chính là mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu chứ không phải công nghiệp lắp ráp. Công nghiệp lắp ráp lại thuộc khâu hạ nguồn, nó không mang tính sản xuất, chế tạo, thiếu yếu tố năng động, sáng tạo.
Đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, nếu như công nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chúng loại quá nhiều, chi phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, bộ phận, và các sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác.
Thứ tư, công nghiệp hỗ trợ phát triển có hiệu quả tạo điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài và tạo tăng trưởng bền vững. Nhân tố lao động giá rẻ ngày nay cũng không còn sức hấp dẫn nhiều trong thu hút đầu tư, phát triển bền vững. CNHT phát triển sẽ thu hút FDI, tỷ lệ của chí phí về công nghiệp hỗ trợ cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng công nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Đối với công nghiệp lắp ráp và tận dụng lao động giá rẻ, đến một mức độ nào đó khi các tập đoàn kinh tế không thấy cơ hội nữa họ sẽ rời bỏ đi.
Thay vào đó, xu thế ngày nay các tập đoàn kinh tế, công ty nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ chú trọng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà máy vào những khu vực mà tại đó họ có thể tận dụng được một ngành công nghiệp hỗ trợ tốt, đáp ứng được nhu cầu mua sắm linh kiện, chi tiết sản phẩm hay như các hợp đồng cung cấp, đặt hàng sản xuất các chi tiết, đơn vị sản phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm.
Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa cũng không phải mất phí tổn và thời gian về nghiên cứu phát triển do công đoạn này đã được các tập đoàn đầu tư, các công ty đa quốc gia thực hiện. Do vốn đầu tư được rải ra cho nhiều doanh nghiệp nên phân tán, hạn chế được rủi ro, khủng hoảng nếu có. Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có quy mô nhỏ, nên có thể thay đổi mẫu mã, đổi mới hoạt động sản xuất nhanh, ứng phó linh hoạt với biến động của thị trường.
Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải là công nghiệp hỗ trợ phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Giữa FDI và ngành công nghiệp hỗ trợ có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong nhiều trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty khu vực địa phương) đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Thứ năm, phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ có tác động khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề. Lao động trong công nghiệp hỗ trợ sẽ khuyến khích, phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, trong khi hoạt động lắp ráp là những công việc đơn thuần, lặp đi lặp lại, trình độ tay nghề của công nhân không có cơ hội được nâng cao, tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thứ sáu, ngành công nghiệp hỗ trợ còn có những đóng góp quan trọng trong sự ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa. Khi các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp tự sản xuất được các chi tiết, linh kiện sản phẩm, đồng nghĩa với việc không còn phải nhập khẩu để phục vụ cho xuất khẩu, từ đó sẽ có tác động hạn chế nhập siêu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời giảm được tình trạng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển tự động nó sẽ có tác động tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ tạo ra hiệu ứng kéo các ngành công nghiệp khác phát triển, giải quyết công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế, kích thích tiêu dùng trong nước, đóng góp tăng trưởng kinh tế và làm giảm tỷ lệ người nghèo.
Cuối cùng, phát triển công nghiệp hỗ trợ là điều kiện đủ để phát triển các cụm liên kết ngành (industrial cluster)– công cụ rất hữu hiệu giúp nâng cao cạnh tranh, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế vùng – thông qua xây dựng mạng lưới các nhà cung ứng sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp khác.
Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Sau hơn 35 năm Đổi mới cũng là 35 năm thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế được duy trì tương đối ổn định và liên tục, bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt 5,9%/năm; và giai đoạn 2016-2020 đạt 6%/năm; tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 5,95%/năm. Riêng năm 2020 mặc dù đại dịch Covid-19 ảnh hưởng rất nặng nề nhưng GDP vẫn tăng tưởng 2,91%. Quy mô GDP tiếp tục được mở rộng, tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015.
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng định hướng công nghiệp hóa. Xét cả giai đoạn 2011-2020, nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo không ngừng được mở rộng và chiếm tỉ trọng cao nhất trong các ngành công nghiệp với đóng góp trong GDP tăng liên tục qua các năm (tăng từ 13% năm 2010 lên 14,27% năm 2016; 16,48% vào năm 2019 và đạt khoảng 16,7% vào năm 2020).
Trong 10 năm (2011-2020), công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% vào GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam từ vị trí thứ 50 (năm 2010) lên vị trí thứ 22 (năm 2019) trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới. Đến nay, Việt Nam đã hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa. Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỉ lệ nội địa hóa.
Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (khu vực doanh nghiệp FDI) đã trở thành trụ cột phát triển năng động nhất và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hiện nay, vốn FDI chiếm 22- 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm 55% giá trị sản lượng công nghiệp, khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu, khoảng 26% tổng thu ngân sách và 20% GDP và khu vực FDI trực tiếp và gián tiếp tạo ra khoảng 10 triệu công ăn việc làm.
Khu vực FDI cũng tạo tác động lan toả, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt trong một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao-su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu tới các quốc gia trên thế giới. Năng lực sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước theo đó được nâng lên, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp Việt Nam được cải thiện.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ đã thúc đẩy doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, cải thiện năng lực sản xuất và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Năm 2018, có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và hơn 1.500 doanh nghiệp sản xuất vật liệu cho ngành dệt - may, da - giày (chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo), tạo việc làm cho hơn 600.000 lao động, chiếm 8% lao động toàn ngành chế biến, chế tạo), doanh thu sản xuất, kinh doanh xấp xỉ 1 triệu tỷ đồng (đóng góp khoảng 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo).
Có thể kể tới một thành công rõ nét của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam nhìn từ trường hợp Samsung. Theo Bộ Công Thương (2021), năm 2014, Tập đoàn Samsung đưa ra danh sách 170 phụ kiện doanh nghiệp Việt Nam có thể cung ứng cho sản phẩm GalaxyS4 và Tab, nhưng các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam đã không thể đáp ứng được dù chỉ là linh kiện đơn giản nhất và phải chấp nhận thất bại ngay trên sân nhà. Một năm sau, để không bỏ lỡ cơ hội, 4 doanh nghiệp CNHT Việt Nam đã đạt cấp độ nhà cung ứng cấp 1 của Samsung và tiếp tục gia tăng số lượng nhà cung ứng cho Samsung trong những năm sau đó. Theo đó, số lượng nhà cung ứng cấp 1 của Samsung tăng từ 35 doanh nghiệp năm 2018 lên 42 doanh nghiệp. Số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 doanh nghiệp năm 2018 lên 170 doanh nghiệp. 240 doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới cung ứng của Samsung.
Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á vào đầu năm 2020 trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp một lần nữa khẳng định chiến lược phát triển lâu dài và định hướng để Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất toàn cầu của Samsung. Ngoài Samsung, đến năm 2020, Toyota Việt Nam có tổng cộng 33 nhà cung cấp thì đã có 5 nhà cung cấp Việt Nam (chiếm 15,15%).
Việc các doanh nghiệp FDI đã có những thay đổi tích cực trong sử dụng nhà cung cấp khi chú ý hơn tới nguồn cung cấp từ các doanh nghiệp Việt Nam cũng được thể hiện qua kết quả khảo sát của Qima - một nhà cung cấp các giải pháp chuỗi cung ứng. Qima đã thực hiện khảo sát với hơn 700 doanh nghiệp trên toàn cầu trong tháng 3/2021 cho thấy, Việt Nam tiếp tục được nhiều doanh nghiệp Mỹ và châu Âu lựa chọn vào chuỗi cung ứng. 25% doanh nghiệp có trụ sở tại châu Âu trong cuộc khảo sát này đã bình chọn Việt Nam là một trong 3 quốc gia cung ứng hàng đầu của họ trong quý I/2021, riêng với doanh nghiệp ở Mỹ, con số này thậm chí còn cao hơn, ở mức 43%. Trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát đã chuyển sang các nhà cung cấp khác vào năm ngoái để tránh đại dịch và các rủi ro khác, có 1/3 doanh nghiệp cho biết Việt Nam là lựa chọn hàng đầu của họ. Riêng với doanh nghiệp Mỹ, con số này thậm chí còn cao hơn, ở mức 40%. Trong số những doanh nghiệp được hỏi có ý định tìm kiếm các nhà cung ứng mới trong 12 tháng tới, có 38% doanh nghiệp Mỹ và 28% doanh nghiệp châu Âu cho biết có kế hoạch chọn Việt Nam hoặc mua thêm từ các nhà cung cấp ở đây.
Tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp Việt Nam đã được cải thiện dần trong giai đoạn vừa qua. Ví dụ như tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử gia dụng là 30% - 35%; điện tử phục vụ các ngành ô-tô - xe máy khoảng 40% (chủ yếu cho sản xuất xe máy). Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng thị trường nội địa (xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, tỷ lệ nội địa hóa đạt tối đa đến 40%).
Bên cạnh việc gia tăng số lượng nhà cung ứng, nhiều sản phẩm “made in Việt Nam” đã ra đời. Năm 2015, đánh dấu bước đầu phát triển của ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam với sự xuất hiện của chiếc điện thoại cao cấp “Made in Việt Nam” thương hiệu Bphone trên thị trường. Đến năm 2019, ô tô VinFast thương hiệu Việt xuất hiện đánh dấu vị thế mới của ngành công nghiệp ô tô đang vươn lên tự chủ trong đầu tư, sản xuất, làm chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
Chính sách phát triển CNHT giai đoạn trước 2015 được quy định tại 03 văn bản sau:
- Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), ngày 31 tháng 7 năm 2000 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 là văn bản đầu tiên về định hướng phát triển trong công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Quy hoạch đưa ra các định hướng, giải pháp nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ cho 05 ngành hạ nguồn là: ngành dệt may; ngành da giày; ngành điện tử - tin học; ngành sản xuất và lắp ráp ô tô; ngành cơ khí chế tạo.
- Quyết định số 12/2011/QĐ-TT ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ: Quyết định này đã khẳng định vai trò của trong công nghiệp hỗ trợ và quyết tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam. Đây là văn bản đầu tiên quy định về chính sách phát triển riêng của ngành CNHT, trong đó quy định chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với các ngành: cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt - may, da - giầy và trong công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.
- Quyết định 1556/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ: đây là đề án trợ giúp trực tiếp cho nhóm đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Đề án đưa ra nhóm giải pháp liên quan đến chính sách, thể chế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp hỗ trợ.
Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2015 - 2020 đã đã được luật hóa tại các văn bản pháp quy sau:
- Luật đầu tư 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật đầu tư: sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được đưa vào danh mục lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi đầu tư.
- Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế, đã bổ sung các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
- Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ quy định 06 ngành nghề được hỗ trợ, ưu đãi bao gồm: dệt - may, da - giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao.
- Thông tư số 29/2018/TT-BTC ngày 28 tháng 3 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn lập, quản lý và sử dụng kinh phí Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Thông tư 55/2015/TT-BCT ngày 30 tháng 12 năm 2015 của Bộ Công Thương quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với các Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
- Ngoài ra, trong năm 2017, Chính phủ tiếp tục ban hành các Quyết định phê duyệt các Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ sau: (i) Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025; (ii) Quyết định số 10/2017/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã dành riêng Điều 19 về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị với nhiều nội dung hỗ trợ cụ thể, xác lập khung khổ pháp lý cao nhất mang tính liên tục, nhất quán, toàn diện trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2020 đến nay:
Đại dịch Covid-19 diễn ra từ đầu năm 2020 đã khiến các ngành sản xuất chế biến, chế tạo và công nghiệp hỗ trợ chịu ảnh hưởng nặng nề dẫn đến nguy cơ đứt gãy nguồn cung ứng. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sức cạnh tranh còn thấp, gặp nhiều khó khăn để duy trì sản xuất trong bối cảnh đại dịch kéo dài. Trước bối cảnh đó, ngày 6/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ (Nghị quyết 115). Việc triển khai Nghị quyết số 115 là hết sức cấp bách và quan trọng nhằm kịp thời hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do tác động của dịch Covid-19, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh mới.
Triển khai Nghị quyết 115, nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã được các Bộ, ngành nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành mới hoặc điều chỉnh, bổ sung, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Từ đó, tạo tiền đề cho ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Có thể kể đến một số chính sách đã được ban hành trong thời gian qua như:
- Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 16/3/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, trong đó Thủ tướng Chính phủ quyết định mức, thời gian ưu đãi đầu tư đặc biệt theo các tiêu chí về công nghệ cao, chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi, giá trị sản xuất trong nước đối với các dự án đầu tư quy định tại Khoản 2, Điều 20 Luật Đầu tư.
- Nghị định số 57/2021/NĐ-CP ngày 4/6/2021 bổ sung điểm (g) Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 20 Điều 1 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP) về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
- Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 1.9.2016 và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16.11.2017. Theo đó, ngoài Chương trình ưu đãi thuế nhập khẩu linh kiện ô tô được áp dụng từ năm 2017, Nghị định số 57 đã bổ sung thêm Chương trình ưu đãi thuế công nghiệp hỗ trợ ô tô quy định nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất đực nhập khẩu để sản xuất, gia công các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0%. Thời gian thực hiện của Chương trình là 5 năm (2020-2024).
- Quyết định số 337/QĐ-BTTTT ngày 26.3.2021 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số, trong đó bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
- Trong năm 2021 vừa qua, Bộ Công thương đã nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ xem xét, phê duyệt Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Dự thảo Nghị định xây dựng, đề xuất một số cơ chế, chính sách mới như chính sách hỗ trợ tín dụng theo hình thức cấp bù lãi suất thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại và hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; cơ chế ưu đãi thí điểm đặc thù đối với các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp nhằm thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, góp phần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Bộ Công thương đã nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da Giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035. Hiện, Bộ Công thương cũng đang trong quá trình xây dựng Dự án Luật phát triển công nghiệp, dự kiến trình Quốc hội xem xét thông qua giai đoạn 2022-2023.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22.1.2018 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp và khu kinh tế, trong đó có nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích mô hình khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp chuyên sâu như miễn, giảm tiền thuê đất, ưu tiên vay vốn tín dụng đầu tư, vốn vay ưu đãi ODA, hướng ưu đãi thuế, ưu tiên tham gia các chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực…
Sự ra đời của Nghị quyết 115 được đánh giá là đòn bẩy chính sách hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng phát triển mạnh mẽ, tạo cơ hội đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ nước ngoài. Nghị quyết 115 thể hiện sự quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc cải thiện môi trường đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Một số hạn chế
Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai và còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp, đặc biệt là cung cấp linh kiện cho các doanh nghiệp, các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, số lượng doanh nghiệp chuyên về công nghiệp hỗ trợ còn ít, trình độ chỉ ở mức trung bình, thậm chí còn thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một trở lực lớn cho sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng.
Do cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các đối tác và khả năng cạnh tranh đang còn thấp. Cho đến nay, hệ thống công nghiệp hỗ trợ mới bao gồm các nhóm phục vụ ngành điện tử tin học; dệt may, da giày; sản xuất, lắp ráp ô-tô, xe máy; gia công kim loại phục vụ sản xuất công nghiệp...
Đối với ngành điện tử - tin học, công nghiệp hỗ trợ mới tập trung ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với 90% tổng vốn đầu tư. Doanh nghiệp trong nước chiếm 2/3 số cơ sở sản xuất, sử dụng 60% lực lượng lao động, song chỉ chiếm chưa đầy 10% tổng số vốn đầu tư.
Trong ngành dệt may - da giày, tuy là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn, nhưng chưa có công nghiệp hỗ trợ thích đáng nên tỷ lệ nội địa hóa đang còn thấp. Nguyên phụ liệu cho ngành dệt may phải nhập khẩu từ 70% - 80%.
Trong ngành ô-tô, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi: mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7% - 10%, trong đó Thaco đạt 15% - 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với dòng xe Inova. Đối với các loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước, tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 55%.
Có thể nói, mặc dù có nhiều triển vọng, song do phát triển trên nền sản xuất khép kín, công nghệ nền lạc hậu và đội ngũ doanh nhân chưa có nhiều kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ; với thị trường nhỏ, chưa đủ quy mô sản xuất, giá thành cao, sức cạnh tranh thấp, nên thương hiệu và thị phần của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong số khoảng 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện chỉ có khoảng hơn 300 doanh nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Trình độ sản xuất và công nghệ của doanh nghiệp đã từng bước được cải thiện nhưng các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ cao vẫn chủ yếu do các doanh nghiệp FDI cung cấp.
Khoảng cách giữa yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia và năng lực đáp ứng của các doanh nghiệp sản xuất nội địa còn rất lớn. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, song còn ít doanh nghiệp có chiến lược phát triển dài hạn để có thể đầu tư chiều sâu về thiết bị, công nghệ, quản lý, cũng như nhân lực.
Lĩnh vực sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước khá giống nhau, cả về trình độ, quy mô, công nghệ và sản phẩm. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chưa đủ năng lực đầu tư, hấp thụ và đổi mới công nghệ sản xuất. Các doanh nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp hỗ trợ còn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là lao động tay nghề cao. Trình độ của đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn hạn chế, trong khi đây là nhân tố quyết định đường lối, chiến lược kinh doanh và cách thức vận hành doanh nghiệp, khả năng chấp nhận rủi ro để thực thi các điều chỉnh, cải cách thông qua đầu tư, đổi mới công nghệ, cách thức quản lý...
Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài còn lỏng lẻo, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chưa phong phú về chủng loại, kiểu dáng và mẫu mã, chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành cao… Hiện nay, một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam như điện tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô-tô, xe máy… hầu như chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm, nên phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất còn manh mún, bị động, chi phí cao. Nguyên phụ liệu trong nước chỉ co cụm ở các doanh nghiệp FDI, còn doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được chất lượng cho các đơn hàng xuất khẩu. Số doanh nghiệp Việt Nam tham gia trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ còn khá khiêm tốn. Các doanh nghiệp cung cấp linh kiện, bán sản phẩm hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đang đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là các doanh nghiệp Đài Loan (Trung Quốc), cuối cùng mới là các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ trọng thấp vì vẫn đang còn khoảng cách tiêu chuẩn chất lượng khá lớn giữa các nhà cung cấp linh kiện trong và ngoài nước. Điều này dẫn đến giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp Việt Nam thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong các ngành này hạn chế…
Nói cách khác, ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát huy được mạnh mẽ vai trò đáng lẽ phải đạt được trong điều kiện của một quốc gia đang dịch chuyển mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam. Thực tế này đặt ra không ít khó khăn và thách thức cho doanh nghiệp trong nước nếu muốn tham gia và tiến sâu hơn vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI, nhất là khi cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra nhiều thay đổi nhanh và mạnh mẽ ở mọi khía cạnh và các công đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu. Do vậy, phát triển công nghiệp hỗ trợ đang ngày càng được Chính phủ Việt Nam chú trọng, ưu tiên phát triển, đặc biệt trong giai đoạn từ 2015 đến nay.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam là do:
Thứ nhất, chưa xây dựng được chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ để các doanh nghiệp dựa vào xây dựng chiến lược phát triển cho riêng mình, từ đó các doanh nghiệp mới có thể yên tâm đầu tư.
Thứ hai, chưa có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là chính sách về vốn vay, lãi suất ưu đãi, chính sách thuế,… ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ.
Thứ ba, chưa có quy hoạch đồng bộ cho phát triển công nghiệp hỗ trợ. Mặc dù ngành công nghiệp hỗ trợ đã được quy hoạch tổng thể nhưng việc quy hoạch lại chưa được thực hiện cho từng vùng, miền, địa phương, do đó việc phát triển công nghiệp hỗ trợ còn mang tính tự phát, chưa có sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng.
Thứ tư, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ công nghệ, kỹ thuật của các doanh nghiệp còn lạc hậu, khó có khả năng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là những ngành có hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cao.
Thứ năm, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ còn lỏng lẻo, nhiều doanh nghiệp FDI muốn tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nhưng còn thiếu thông tin và cơ hội.
Thứ sáu, chưa thành lập cơ quan độc lập của Nhà nước để chuyên hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có điều kiện tiếp cận những tập đoàn, doanh nghiệp công nghiệp lớn nhằm học hỏi và ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm.
Thứ bảy, kết cấu hạ tầng phục vụ cho công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn với chuỗi giá trị toàn cầu
Định hướng
Từ vai trò của công nghiệp hỗ trợ và thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu các bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, định hướng nào cần được xác định để phát triển công nghiệp hỗ trợ mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới.
Với tư cách là Bộ quản lý ngành, Bộ Công Thương đã xác định những định hướng cơ bản để phát triển công nghiệp hỗ trợ trong thời gian tới như sau:
Đầu tư gắn liền với quy hoạch sản xuất công nghiệp và tổ chức hệ thống thương mại: Công nghiệp hỗ trợ thường phát triển gần các nhà lắp ráp, các trung tâm công nghiệp, trung tâm đô thị, nơi có hệ thống hạ tầng tốt nhất và lực lượng lao động đòi hỏi tay nghề và trình độ cao. Vì vậy, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn liền với quy hoạch, không phá vỡ không gian kinh tế - xã hội của địa phương là một trong các định hướng quan trọng.
Chú trọng chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư: Hiện nay, có nhiều dự án FDI sản xuất sản phẩm công nghệ cao nhưng gần như không tạo ra giá trị gia tăng trong nội địa vì toàn bộ máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất đều được nhập khẩu và sản phẩm đầu ra được xuất khẩu 100%. Nói cách khác đây là các dự án chế xuất, do đó lợi ích thu được cho quốc gia chỉ là giải quyết việc làm cho người lao động. Vì vậy, trong thời gian tới, cần phát triển công nghiệp hỗ trợ theo định hướng nâng cao tỉ lệ nội địa hóa, sử dụng sản phẩm đầu vào trong nước, thay thế nhập khẩu. Điều này không những góp phần gia tăng tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm mà còn có tác động lan tỏa đến các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước khi trở thành nhà cung ứng cho các doanh FDI này.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ thân thiện với môi trường: Sản xuất công nghiệp hỗ trợ hầu hết đòi hỏi công nghệ tương đối cao, độ chính xác lớn, với các tiêu chuẩn khắt khe từ các nhà láp rắp hoặc các doanh nghiệp sản xuất cụm linh kiện. Các bộ tiêu chuẩn như vậy đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về công nghệ, môi trường, xã hội. Do vậy, cần chú trọng thu hút các dự án FDI sản xuất linh phụ kiện cung ứng cho sản xuất thành phẩm xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội địa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, làm tiền đề cho việc cải thiện các vấn đề về môi trường và nâng cao tiêu chuẩn sống.
Tăng cường việc chuyển giao công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý thông qua công nghiệp hỗ trợ: Các dự án đầu tư của các Tập đoàn nước ngoài lớn có tỉ lệ tham gia cung ứng đầu vào về linh phụ kiện, vật liệu ngay trong nội địa cao, cũng như việc cung ứng sản phẩm cho chính thị trường nội địa địa gia tăng theo thời gian cần được ưu tiên và khuyến khích đầu tư. Điều này sẽ góp phần tạo ra chuỗi giá trị sản xuất trong thị trường nội địa, thúc đẩy đào tạo chuyển giao công nghệ sản xuất và kinh nghiệm quản lý từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn liền với việc đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp kỹ thuật cao: Bên cạnh máy móc sản xuất hiện đại, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thường đòi hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật cao của người lao động. Phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ góp phần gián tiếp phát triển công tác đào tạo lực lượng lao động này. Do vậy, trong giai đoạn tới cần tập trung thu hút các dự án sản xuất công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi lao động công nghiệp có chất lượng cao, kiến thức và kỹ năng sản xuất tốt. Và ngược lại, cũng cần chủ động và chú trọng trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp kỹ thuật cao để cung ứng cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tiêu chuẩn quốc tế.
Giải pháp
Để hiện thực hoá mục tiêu Chính phủ đã đề ra đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa và giá trị xuất khẩu chiếm 25% giá trị sản xuất công nghiệp; phấn đấu đạt khoảng 2.000 doanh nghiệp.
Để phát triển công nghiệp hỗ trợ, bảo đảm nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng tạo ra trong nước, trước hết, cần rà soát, xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế để hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển, áp dụng những điều kiện của các hiệp định thương mại tự do (FTA) để định hướng cho các doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị, nhất là khai thác thị trường mới, xây dựng chính sách phù hợp trong quản lý và thu hút đầu tư để bảo đảm các doanh nghiệp FDI có sự liên kết và chuyển giao công nghệ, cũng như tạo sự lan tỏa cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước. Tiếp tục phát triển mạnh công nghiệp hạ nguồn, trong đó có ngành công nghiệp năng lượng, cơ khí chính xác, cơ khí chế tạo,… để bảo đảm cho công nghiệp hỗ trợ có điều kiện và nền tảng phát triển. Trước mắt cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ: Điều chỉnh, sửa đổi những quy định còn vướng mắc trong Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, ngày 3-11-2015, của Chính phủ “Về phát triển công nghiệp hỗ trợ” liên quan đến phạm vi công nghiệp hỗ trợ; làm rõ tiêu chí xác định đối tượng ưu đãi; rà soát, cập nhật và điều chỉnh danh mục các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu ban hành chính sách thúc đẩy một số ngành công nghiệp ưu tiên phát triển, như: Cơ khí, ô-tô, dệt may, da - giày, điện tử; nghiên cứu chiến lược hỗ trợ xuất khẩu đối với các sản phẩm công nghiệp trọng điểm… nhằm tạo thị trường cho các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, bao gồm các chính sách về thị trường, phòng vệ thương mại và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp.
Đặc biệt, trong bối cảnh hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ khi Việt Nam thực hiện các hiệp định thương mại tự do, Chính phủ cần xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp hỗ trợ phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước…
Hai là, bố trí đủ nguồn kinh phí sự nghiệp nhằm thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 18-1-2018, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025” để triển khai hiệu quả các nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước. Đồng thời, khuyến khích các địa phương xây dựng chính sách, chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ riêng, đầu tư nguồn lực trên địa bàn, gắn với việc tuyên truyền, phổ biến chính sách công nghiệp hỗ trợ để doanh nghiệp trên địa bàn tiếp cận đầy đủ các chính sách của Nhà nước.
Ba là, phát triển chuỗi giá trị trong nước: Tạo cơ hội hình thành và phát triển chuỗi giá trị trong nước thông qua thu hút đầu tư hiệu quả và thúc đẩy kết nối kinh doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ tập trung để tạo cụm liên kết ngành; phát triển các ngành công nghiệp vật liệu nhằm tăng cường tính tự chủ về nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh; hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, ưu tiên phấn đấu có một số tập đoàn tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khác phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị “Về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Bốn là, phát triển và bảo vệ thị trường nội địa: Thúc đẩy phát triển thị trường nội địa và thị trường ngoài nước để tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Cụ thể, bảo đảm quy mô thị trường nội địa thông qua các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế; xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước.
Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Đồng thời, tìm kiếm, mở rộng thị trường ngoài nước trên cơ sở tận dụng các hiệp định FTA đã ký kết; triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển tham gia hiệu quả các hiệp định thương mại tự do; tích cực tháo gỡ rào cản, chống hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh; phát triển các loại hình và phương thức kinh doanh thương mại hiện đại.
Năm là, nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ: Xây dựng và vận hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa phương từ vốn đầu tư trung hạn của Trung ương và địa phương trên cơ sở nhu cầu, mục tiêu phát triển và nguồn lực sẵn có nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Hình thành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất nhằm nâng cao năng lực của các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng. Các trung tâm vùng có vai trò kết nối các trung tâm tại địa phương, hình thành hệ sinh thái chung về công nghệ và sản xuất công nghiệp.
Cần tập trung nâng cao năng lực khoa học, công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ; đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ; tăng cường cơ chế hợp tác công tư trong việc triển khai các dự án đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua các chương trình, kế hoạch quốc gia về nâng cao tay nghề, thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Cùng với đó, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp, triển khai mô hình quản lý theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp, áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, đặc biệt đối với các kỹ năng nghề quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Sáu là, phát triển công nghiệp hạ nguồn. Việc phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn (các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh) có vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ, cũng như thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án quy mô lớn tại Việt Nam. Bằng cách thúc đẩy các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, thị trường công nghiệp hỗ trợ trong nước sẽ được duy trì và mở rộng, tạo tiền đề để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung cấp, tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng.
Hiện nay, năng lực các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam còn thấp, hàm lượng giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp trong nước chưa cao, do đó, cần bảo đảm quy mô thị trường nội địa để phát triển công nghiệp trước khi hướng đến các thị trường xuất khẩu. Vì vậy, cần có các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ thị trường nội địa, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy phát triển sản xuất các sản phẩm công nghiệp trong nước thông qua các biện pháp, cụ thể:
- Tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm như ngành ô-tô, điện - điện tử, dệt may, da - giày trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, của Bộ Chính trị.
- Xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước; tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
- Xây dựng chính sách về thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu linh hoạt, phù hợp để giúp các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cắt giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu.
- Thực thi có hiệu quả việc kiểm soát hiện tượng chuyển giá, gian lận thuế đối với các doanh nghiệp FDI nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các doanh nghiệp công nghiệp trong nước đầu tư sản xuất, kinh doanh thông qua các biện pháp: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng; tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế.
- Xây dựng chính sách đột phá tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.