Việt Nam cần làm gì để góp phần đảm bảo ANLT thế giới?

Việt Nam vừa cần bảo đảm vững chắc ANLT quốc gia, vừa phải tận dụng thời cơ để xuất khẩu lương thực đạt hiệu quả cao nhất

Hơn 20 năm qua, Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới (sau Thái Lan). Cho đến nay Việt Nam đã xuất khẩu 75 triệu tấn gạo, trị giá hơn 23 tỷ USD; riêng năm 2010 xuất được 6,88 triệu tấn gạo, trị giá 3,23 tỷ USD. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 1/5 lượng gạo xuất khẩu toàn cầu.

Việt Nam cũng đã cử chuyên gia đi chia sẻ kinh nghiệm của mình cho nhiều nước châu Á, châu Phi, Mỹ La tinh… đã được chính phủ, nhân dân các nước bạn bè, cộng đồng quốc tế hoan nghênh và đánh giá cao. Vì thế, đóng góp của Việt Nam có vai quan trọng đối với việc bảo đảm an ninh lương thực (ANLT) thế giới.

Cơ hội và thách thức

Giá các loại hàng hoá, đặc biệt là giá lương thực thế giới tăng cao trong thời gian gần đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam. Vì Việt Nam vừa là nhà xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, nhưng lại là nước nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong nước.

Trong bối cảnh giá lương thực trên thế giới đang có xu hướng tăng cao, cung – cầu mất cân đối lớn do nhiều nguyên nhân, Việt Nam cần phải giải quyết tốt bài toán vừa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, vừa phải tận dụng thời cơ để xuất khẩu lương thực đạt hiệu quả cao nhất. Vì thế, Việt Nam cần làm tốt các khâu: sản xuất, tổ chức thị trường, điều hành xuất khẩu… Trên cơ sở đó, cần tính đến các yếu tố có liên quan đến các khâu nói trên.

Theo ông Koos Neefjes, Cố vấn cao cấp Chương trình phát triển LHQ, Việt Nam sẽ là một trong 5 nước chịu thiệt hại nặng nhất do biến đổi khí hậu toàn cầu. Với kịch bản nước dâng 1m, Đồng bằng sông Hồng sẽ mất 5.000km2 đất, Đồng băng sông Cửu Long bị ngập 15.000 – 20.000km2; tổng sản lượng lương thực giảm khoảng 5 triệu tấn.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2011 sẽ phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu mới tại khu vực là Myanmar, Campuchia. Hơn nữa, từ ngày 1/1/2011, Việt Nam phải mở cửa thị trường gạo theo các cam kết khi là thành viên của WTO, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài có thể trực tiếp thực hiện các giao dịch ở Việt Nam và xuất khẩu gạo của Việt Nam ra nước ngoài.

Cục Trồng trọt (Bộ NN và PTNT) cảnh báo về việc đất nông nghiệp đang từng ngày bị chuyển đổi mục đích sử dụng một cách thiếu quy hoạch và tuỳ tiện nên ngày càng bị thu hẹp một cách đáng báo động. Tổng diện tích đất lúa toàn quốc hiện nay là 4,1 triệu ha. Song từ năm 2000 – 2005, diện tích đất lúa đã giảm nghiêm trọng với hơn 302.000ha. Gần 9 năm qua, đất lúa đã bị giảm 59.000ha. Riêng tại Đồng bằng sông Cửu Long, từ 2000 – 2007, đất lúa đã bị giảm 205.000ha (57% so với toàn quốc). Tại phía Bắc, chỉ tính Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội đã giảm 3.161ha… mặt khác, thói quen sản xuất nhỏ, tập quán canh tác và sử dụng phân bón chưa phù hợp, chất lượng giống cây trồng, vật nuôi chưa cao… cũng hạn chế đến năng suất, chất lượng lương thực của Việt Nam. Vì thế, gạo của Việt Nam giá thấp hơn gạo cùng loại của Thái Lan (550/900USD/tấn).

Những giải pháp cần quan tâm

Để nâng cao chất lượng và vị thế gạo xuất khẩu và hướng tới các khách hàng có nhu cầu cao như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)… và đảm bảo an ninh lương thực thì Việt Nam có thể và cần phải quan tâm đến các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, để phát triển nhanh và bền vững, ngành sản xuất lương thực cần tập trung thực hiện các chính sách ổn định diện tích đất trồng lúa; có chính sách tín dụng ưu đãi và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho “Tam nông”; tăng cường đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi; đẩy mạnh cơ giới hoá trong sản xuất, chế biến; cải tiến về giống và đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác, phòng trừ sâu bệnh giảm tổn thất trong và sau thu hoạch; tổ chức lại sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ; nâng cao thu nhập cho người trồng lúa gắn với phát triển nông thôn ngày càng văn minh hiện đại…

Cần xây dựng các vùng chuyên canh cây lương thực tại 2 vùng lúa (Đồng bằng SCL và SH); xây dựng và sớm triển khai Chiến lược quốc gia về chống biến đổi khí hậu. Xây dựng vùng trồng lúa theo tiêu chuẩn GAP và định vị thương hiệu gạo của Việt Nam.

Hai là, điều hành sản xuất, phân phối, lưu thông bình ổn giá lương thực, bảo đảm cho người trồng lúa có thu nhập hợp lý. Chính phủ cần thành lập Uỷ ban chính sánh về gạo và trách nhiệm nghiên cứu đề xuất và thi hành các chính sách liên quan đến sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Uỷ ban này có nhiệm vụ đánh giá chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cân đối với tiêu dùng hàng năm, đảm bảo tính nhất quán và chính xác để vừa ổn định thị trường và an ninh lương thực quốc gia vừa không để lỡ cơ hội xuất khẩu có hiệu quả. Hiện nay, việc xuất khẩu gạo và điều hoà lương thực chủ yếu do Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) phụ trách, nhưng trên thực tế VFA còn thiếu kế hoạch và tính hiệu lực cần thiết. Vì vậy, Uỷ ban này ra đời sẽ góp phần phối hợp hài hoà, thống nhất giữa các bộ, ngành, các chủ thể tham gia thị trường lương thực, nhằm sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Tránh những hạn chế về dự báo giá gạo như đầu năm nay và bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu như năm 2008.

Ba là, cần tăng cường dự trữ lương thực cả ở cấp quốc gia và doanh nghiệp. Chính phủ cần có quỹ dự phòng để hỗ trợ nông dân khi gặp thiên tai hoặc các doanh nghiệp khi làm nhiệm vụ bình ổn giá. Quỹ này có quy mô phù hợp với tăng trưởng kinh tế và cân đối ngân sách nhà nước, là công cụ hữu hiệu điều tiết vĩ mô về an ninh lương thực quốc gia. Nguồn vốn này sẽ được dùng để hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp mua dự trữ lương thực. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần đầu tư xây dựng các kho tạm trữ lúa cho khu vực Đồng bằng sông Cửu long. Ngoài ra còn cần xây dựmg hệ thống kho chứa cho nông dân gửi thóc, chờ cơ hội đưa ra thị trường.

Bốn là, cần tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu lương thực cho phù hợp với tình hình mới. Năm 2010 đã có 264 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, nhưng chỉ có 30 doanh nghiệp thực sự làm gạo xuất khẩu. Trong đó, nhiều doanh nghiệp năng lực yếu kém, chỉ tham gia xuất khẩu khi có lợi và mới chỉ làm được “phần ngọn” của quá trình sản xuất, chế biến, lưu thông, xuất khẩu. Nghị quyết 109 của Chính phủ về tổ chức kinh doanh xuất khẩu gạo ban hành và có hiệu lực năm 2011, sẽ tăng cường nguồn lực cho các doanh nghiệp cạnh tranh xuất khẩu gạo.

Để tự tin trong cạnh tranh xuất khẩu gạo với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp lớn cần chủ động nguồn cung chất lượng cao và nguồn khách hàng tiêu thụ. Để giữ khách hàng truyền thống đồng thời mở thị trường và đối tác mới; cần liên kết “Bốn nhà” trước hết với nông dân để chủ động nguồn cung gạo xuất khẩu thông qua: xây dựng kho dự trữ lớn, đầu tư vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao, xây dựng các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu, nhà máy sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…

Năm là, cần làm tốt công tác dự báo thị trường lương thực. Năm 2008, Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội vàng để xuất khẩu gạo khi giá gạo thế giới lên đến trên 1.000USD/tấn do không dự báo đúng sản lượng lúa gạo trong nước. Trong báo cáo “Triển vọng lương thực”, FAO đã đưa ra nhận định, giá lương thực toàn cầu trong năm 2011 có thể tăng từ 10-20% do mất mùa và giảm sút các nguồn dự trữ toàn cầu. Theo cảnh báo của Olivier de Schutter, chuyên gia Liên Hợp Quốc về lương thực, đã bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng lương thực trên quy mô toàn cầu giống như năm 2008.

Những nguy cơ mất an ninh lương thực là do biến đổi khí hậu toàn cầu, một số nước tăng nguồn dự trữ lương thực, dân số tăng cao, diện tích trồng cây lương thực giảm sút và một số lượng đáng kể lương thực được dùng vào mục đích sản xuất ethanol dùng chạy xe thay vì để ăn. Thêm vào đó là những biến động chính trị ở Bắc Phi, Trung Đông và hậu quả của động đất, sóng thần, rò rỉ phóng xạ hạt nhân ở Nhật Bản… Trong bối cảnh đó, nếu cộng với thiên tai ở một vài nơi trên thế giới nữa thì thị trường thế giới sẽ có đột biến và nguy cơ mất an ninh lương thực là khó tránh khỏi.

Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chủ động tích cực để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và góp phần bảo đảm an ninh lương thực thế giới với tư cách là quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới và là thành viên tích cực của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế./.