Tỉnh Vĩnh Phúc nằm cách Hà Nội khoảng 50 km, gần sân bay quốc tế Nội Bài và là đầu mối giao thông lớn. Phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ - là một bộ phận lãnh thổ hội tụ các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, Vĩnh Phúc đã và đang giữ vai trò động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. Trong những năm qua, sản xuất công nghiệp (SXCN) Vĩnh Phúc đạt tốc độ tăng trưởng cao, luôn là tỉnh có giá trị SXCN đứng thứ 3 miền Bắc và thứ 7 trên cả nước, được xem là một điểm sáng về phát triển công nghiệp ở các tỉnh khu vực phía Bắc.
Tỉnh Vĩnh Phúc nằm cách Hà Nội khoảng 50 km, gần sân bay quốc tế Nội Bài và là đầu mối giao thông lớn. Phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ - là một bộ phận lãnh thổ hội tụ các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, Vĩnh Phúc đã và đang giữ vai trò động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. Trong những năm qua, sản xuất công nghiệp (SXCN) Vĩnh Phúc đạt tốc độ tăng trưởng cao, luôn là tỉnh có giá trị SXCN đứng thứ 3 miền Bắc và thứ 7 trên cả nước, được xem là một điểm sáng về phát triển công nghiệp ở các tỉnh khu vực phía Bắc.
Với phương châm “Thành công của nhà đầu tư cũng là thành công của Vĩnh Phúc”, mục tiêu phấn đấu của tỉnh đến năm 2015, có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI. Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 15,0 – 16,0%/năm (công nghiệp 16,7 – 18,3%); giá trị SXCN đạt trên 92 ngàn tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2015; cơ cấu công nghiệp – xây dựng chiếm 62,7%; dịch vụ - thương mại chiếm 30,6% và nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 6,7%; GDP bình quân đầu người 3.500 – 4.000 USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2010. Giai đoạn 2016 – 2020: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 14,0 – 14,5%/năm (công nghiệp 13 – 14%); cơ cấu công nghiệp – xây dựng chiếm 59,4%, dịch vụ - thương mại chiếm 37,2% và nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 3,4%; GDP bình quân đầu người 6.500 – 7.000 USD, tăng hơn 4 lần so với năm 2010.
Hiện trạng môi trường ở các khu, cụm công nghiệp
Để đạt được mục tiêu này, Vĩnh Phúc đã và đang tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt bổ sung quy hoạch 20 khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh, với tổng diện tích 6.038 ha vào Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam.
Tuy nhiên, sự phát triển công nghiệp và đô thị quá nhanh, quá nóng; quy hoạch đô thị, khu, cụm công nghiệp (KCCN) trên địa bàn tỉnh thực hiện chưa đồng bộ, chưa sát với thực tế; hệ thống cơ sở hạ tầng ở các KCCN hầu như chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, không đáp ứng được yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường (BVMT) còn nhiều bất cập, đầu tư cho công tác BVMT kể cả ở khu vực nhà nước và các doanh nghiệp còn hạn chế. Vấn đề ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn, làng nghề cũng đang trở nên bức xúc. Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước đặc biệt là vấn đề ô nhiễm do rác thải đang là hiện tượng phổ biến trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Các KCCN là những khu vực phát sinh một lượng lớn nước thải có nồng độ các chất ô nhiễm rất cao, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước mặt. Mức độ ô nhiễm qua các thông số dao động trong khoảng 1,04 đến 5,77 lần. Chất lượng nước thải đang ngày càng tác động mạnh đến môi trường nước mặt của các lưu vực tiếp nhận. Việc xử lý nước thải sản xuất chưa đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường, nước thải của nhiều doanh nghiệp vượt giới hạn cho phép và xả thẳng ra môi trường tiếp nhận. Nước thải sinh hoạt của các hộ dân, các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, các làng nghề nằm xen kẽ trong khu dân cư đều xả thải trực tiếp vào môi trường là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường nước mặt, nước ngầm…
Các hoạt động SXCN cũng là một trong những nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí rất lớn, đặc biệt là sự gia tăng các khí như SO2, NOx, CO2… Các khí phát sinh từ các nhà máy do quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch (than và dầu các loại). Kết quả quan trắc cho thấy một số nơi đang bị ô nhiễm về bụi lơ lửng và tiếng ồn. Các loại khí thải độc hại của các làng nghề tái chế sắt thép phế liệu ở Tề Lỗ, Đồng Văn (huyện Yên Lạc); ô nhiễm bụi từ các làng nghề mộc Bích Chu (huyện Vĩnh Tường), Thanh Lăng (huyện Bình Xuyên); Minh Tân (huyện Yên Lạc) và một số cơ sở SXCN nhỏ lẻ nằm xen kẽ trong khu dân cư. Ngoài ra, việc sử dụng than làm nhiên liệu đun đốt gạch, ngói thủ công của một số xã thuộc huyện Yên Lạc, huyện Bình Xuyên cũng là nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất đời sống của cộng đồng dân cư.
Hiện nay, biện pháp xử lý chất thải rắn của tỉnh chủ yếu do các công ty môi trường trên địa bàn tỉnh thu gom, chôn lấp. Tại các địa phương, mới chỉ thu gom rác thải tập trung chôn lấp tại chỗ. Tại các KCN tập trung, các dự án đều phải tự xử lý và hiện chưa có nhà máy xử lý tái chế rác thải nào trên địa bàn.
Nhiệm vụ và giải pháp
Để phát triển công nghiệp trở thành nền tảng kinh tế, gắn liền với BVMT, đảm bảo sự phát triển bền vững chung của tỉnh và các vùng lân cận, Vĩnh Phúc đã đặt ra và triển khai nhiều giải pháp quan trọng. Trước hết là tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp và nhân dân trong công tác BVMT bằng nhiều hình thức. Đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ SXSH và thân thiện với môi trường vào sản xuất. Đặc biệt, chú trọng công tác BVMT ở các KCCN và khu vực nông thôn. Đảm bảo quy hoạch thoát nước thải cho KCN phải tính đến nơi thải nước cụ thể; áp dụng hệ thống và công nghệ xử lý nước tại chỗ cho nhà máy và cho KCN; kiên quyết di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm lớn ra xa các khu dân cư và đầu tư xây dựng hệ thống thiết bị lọc bụi và hấp thụ khí độc trước khi thải vào môi trường không khí; áp dụng hệ thống xử lý nước thải trước khi xả vào hệ thống sông ngòi; thu gom chất thải rắn và xử lý đúng quy phạm, đảm bảo tiêu chuẩn Nhà nước về môi trường. Đối với khí thải từ các dây chuyền sản xuất, thường xuyên định kỳ quan trắc mức độ ô nhiễm, phân tích thành phần khí thải, nước thải từ các nguồn thải và các điểm quan trắc, các khu vực dân cư lân cận. Nếu mức độ ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép thì có kế hoạch đình chỉ hoặc di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát thải các chất gây ảnh hưởng xấu tới môi trường, bắt buộc phải có báo cáo đánh giá định kỳ những tác động tới môi trường và triển khai các biện pháp xử lý khắc phục. Chỉ cho phép xây dựng, vận hành, khai thác các dự án đầu tư, các KCN, CCN khi đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về BVMT. Không xây dựng mới các cơ sở sản xuất xen kẽ trong khu dân cư, khi đã có quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường của cơ quan có thẩm quyền, mới hoàn tất các thủ tục pháp lý về đất cho các cơ sở sản xuất X xác lập độ rỗng của vùng cách ly công nghiệp theo khoảng cách bảo vệ về vệ sinh mà tiêu chuẩn Nhà nước cho phép.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước và chính quyền địa phương cần có cơ chế, chính sách rõ ràng và xây dựng một chương trình hành động cụ thể. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn cần tuân thủ thực hiện chính sách pháp luật về công tác BVMT, nghiên cứu áp dụng SXSH vào thực tiễn…
Vĩnh Phúc: Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường
TCCT
Hiện trạng phát triển công nghiệp