Tác động của phát triển thủy điện MeKong đến an ninh lương thực ở Việt Nam

ThS. ĐỖ DIỆU LINH (Khoa Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội)
TÓM TẮT:
Bài viết tập trung vào phân tích tác động của phát triển thủy điện MeKong đối với thủy sản và sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, là quốc gia nằm phía cuối hạ nguồn hệ thống sông MeKong. Việc xây dựng thủy điện đã dẫn đến suy thoái đất nông nghiệp, một đầu vào quan trọng cho sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa, các công trình đập cũng dẫn đến sự suy giảm chất dinh dưỡng tự nhiên từ đất, làm giảm đáng kể sản lượng nông sản, đặc biệt là các loại cây lương thực. Nguồn cung cấp và chất lượng nước ngọt từ dòng MeKong cũng bị ảnh hưởng tiêu cực do các công trình đập khác nhau. Tác động thứ hai liên quan đến tác động bất lợi đối với môi trường sống thủy sản và thủy sinh, dẫn đến sự sụt giảm về số lượng tạm thời của nghề cá và nuôi trồng thủy sản từ sông MeKong.
Từ khóa: Thủy điện Mekong, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, an ninh lương thực, Việt Nam.

1. Khái quát chung
Thủy điện là một trong những nguồn năng lượng phổ biến và rẻ nhất trên thế giới, sử dụng áp lực của nước di chuyển để tạo ra năng lượng điện. Năng lượng tái tạo này đã cung cấp điện cho hơn 160 quốc gia trên toàn thế giới. Mặc dù lợi ích của việc phát điện, việc phát triển thủy điện bằng cách xây dựng các con đập trên sông ngày càng có tác động bất lợi đến các khu vực xung quanh, bao gồm các quốc gia mà các con sông này chảy qua. Việt Nam, nằm ở hạ lưu sông MeKong ở Đông Nam Á, đang phải đối mặt với những ngoại tác tiêu cực của việc phát triển thủy điện ở thượng nguồn. Sự phát triển này làm giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên là đầu vào quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, trong việc cung cấp dinh dưỡng tự nhiên và chất lượng nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long, là vùng trồng lúa lớn nhất ở phía Tây Nam Việt Nam. Ngoài ra, nó có tác động tiêu cực đến nghề cá và nuôi trồng thủy sản ở vùng đồng bằng. Những tác động bất lợi này đối với thủy sản và sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực của Việt Nam. Việt Nam đã tích cực đàm phán với các quốc gia trên thượng nguồn sông MeKong để trì hoãn hoặc ngừng xây dựng thêm đập trên sông, đó là một giải pháp tạm thời để không gây ảnh hưởng xấu đến thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Bài viết này sẽ phân tích tác động tiêu cực của việc phát triển thủy điện trên thượng nguồn sông MeKong về an ninh lương thực Việt Nam thông qua thủy sản và sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để đối phó với vấn đề này.
Sông MeKong bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng ở Trung Quốc kéo dài khoảng 4800 km qua sáu quốc gia bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, và cuối cùng chảy ra Biển Đông. Dòng sông dài nhất Đông Nam Á, dài thứ bảy ở châu Á và dài thứ mười trên thế giới. Lưu vực của nó có thể được chia thành hai tiểu lưu vực bao gồm thượng lưu sông MeKong (UMB) trong các khu vực quốc gia Trung Quốc và Myanmar và hạ lưu sông MeKong (LMB) trong các khu vực quốc gia các nước còn lại. Lưu vực Hạ lưu với hơn 70% tổng diện tích lưu vực sông MeKong và khoảng 80% lượng nước chảy vào sông MeKong được đánh giá là “quan trọng hơn cả về kinh tế - xã hội và môi trường” so với lưu vực thượng nguồn.
Sông MeKong đóng một vai trò chiến lược trong an ninh lương thực và năng lượng ở các nước dọc theo con sông này. Sông này là một trong những con sông đa dạng sinh học nhất trên thế giới. Đặc biệt, nó có số loài cao nhất trên một đơn vị diện tích và đứng thứ ba trong tổng số loài với khoảng 1.300 loài cá được tìm thấy. Khoảng 80% trong số hơn 70 triệu người sống trong LMB phụ thuộc trực tiếp vào sông MeKong để lấy thức ăn. Ngoài ra, khu vực thủy sản nội địa lớn nhất có giá trị kinh tế khoảng 17 tỷ đô la Mỹ mỗi năm chiếm ba phần trăm tổng sản phẩm quốc nội của khu vực. Sông MeKong được xem là nguồn điện lớn nhất ở Đông Nam Á với từ 175 đến 250 gigawatt có sẵn để khai thác.
Sông MeKong đã chứng kiến một số lượng lớn các đập thủy điện tăng nhanh do nhu cầu điện tăng lên cho tăng trưởng kinh tế. Số đập được dự báo sẽ tăng từ 26 với 2,6 gigawatt lên 135 với 29 gigawatt vào năm 2030. Hầu hết các đập thủy điện bổ sung này sẽ được xây dựng ở Lào, không phải ở Thái Lan và Việt Nam do dự án thủy điện mới ở các quốc gia này. Sự phát triển có thể đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế ngay cả với các nước như Lào hay Thái Lan, nhưng tác động tiêu cực đến thủy sản, sản xuất nông nghiệp và đa dạng sinh học ở các khu vực hạ lưu như đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long ở phía Tây Nam Việt Nam, nơi sông MeKong tiếp cận trước khi đổ vào Biển Đông là vùng trồng lúa, hoa quả và thủy sản lớn nhất ở Việt Nam. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng nông nghiệp quan trọng trong lưu vực sông MeKong. Năm 2005, một nửa trong số 33,8 tấn gạo sản xuất trong LBM là từ đồng bằng sông Cửu Long. Có ba mùa thu hoạch lúa chính mỗi năm ở vùng đồng bằng. Năng suất lúa đạt từ 1 đến 5 tấn/ha/vụ. Sông MeKong cũng là một nguồn cá cho đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 100 nghìn tấn cá đánh bắt và 1,6 triệu tấn cá nuôi trong năm 2008. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc phát triển thủy điện trên thượng nguồn ảnh hưởng xấu đến sản xuất lương thực ở các khu vực hạ lưu như đồng bằng sông Cửu Long.
2. Tác động của phát triển thủy điện đối với lương thực của Việt Nam
2.1. Tầm quan trọng của nghề cá và nông nghiệp đối với an ninh lương thực
Nghề cá và nông nghiệp là quan trọng đối với khu vực nông thôn dọc theo sông MeKong. Cá và gạo được coi là “nền tảng của an ninh lương thực trong thực tế tất cả các nước ven sông”. An ninh lương thực và sinh kế địa phương sẽ bị đe doạ bởi bất kỳ sự sụt giảm nào về sản lượng đánh bắt cá và năng suất nông nghiệp. Không có sự tham gia khai thác thủy sản, suy dinh dưỡng trở thành mối quan tâm chính của nhóm nghèo nhất, người phụ thuộc vào tài nguyên thủy sản. Ngoài ra, gạo là lương thực chủ yếu cho hầu hết các cư dân của khu vực. Nguồn thức ăn này đóng góp 76 phần trăm lượng calo trung bình hàng ngày. Những người sống ở những vùng không có gạo sẽ có lượng calo hàng ngày thấp nhất. Do đó, nghề cá và sản xuất nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong an ninh lương thực. Nói cách khác, bất kỳ sự giảm sút nào về năng suất thủy sản và nông nghiệp đều ảnh hưởng đến an ninh lương thực tiêu cực.
2.2. Tác động của phát triển thủy điện đến nông nghiệp
Sự gia tăng các đập thủy điện có tác động bất lợi đến năng suất nông nghiệp bằng cách làm suy giảm một số tài nguyên thiên nhiên tạo thành đầu vào thiết yếu của sản xuất nông nghiệp như đất nông nghiệp. Khác với sự mất mát dự kiến khoảng 9000 ha đất nông nghiệp bằng cách thay thế các đập dòng chính được đề xuất, một lượng đất nông nghiệp ở Việt Nam đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ cạn kiệt do phát triển thủy điện vào mùa khô. Sự phát triển hạn chế dòng chảy tự nhiên của dòng sông, làm giảm lượng nước vào đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, việc giảm lưu lượng nước xuống đồng bằng sông Cửu Long gây ra xâm nhập mặn làm tăng độ mặn của đất nông nghiệp và làm giảm khả năng sinh sản của đất. Thật vậy, vào đầu năm 2016, Việt Nam bị hạn hán tồi tệ nhất trong gần 100 năm gần đây (Bộ NN & PTNT 2016). Hơn 128 nghìn ha ruộng lúa ở vùng đồng bằng đã bị phá hủy hoàn toàn (Bernamma 2016). Ngoài ra, hạn hán và độ mặn ảnh hưởng đến hơn 221.000 ha lúa, 26.500 ha hoa quả và cây công nghiệp, và 6.500 ha rau quả dẫn đến thiệt hại 210 triệu USD (Bernamma 2016).
Phát triển thủy điện sẽ dẫn đến sự suy giảm nguồn cung cấp chất dinh dưỡng tự nhiên từ đất, gây ra mối đe dọa cho sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Các đập bổ sung được xây dựng trên sông MeKong ngày càng tăng trầm tích và các chất dinh dưỡng tự nhiên khác đến đồng bằng sông Cửu Long (UNEP 2006). Hiện tại, đồng bằng sông Cửu Long có thể cung cấp 26.400 tấn chất dinh dưỡng tự nhiên mỗi năm; số tiền này được ước tính giảm khoảng 75% nếu tất cả các đập thủy điện dòng chính được quy hoạch xây dựng vào năm 2030 (ICEM 2010). Việc tăng số đập sẽ dẫn đến thiệt hại ước tính khoảng 3.400 tấn phosphate mỗi năm trong các cánh đồng bị ngập lụt của đồng bằng sông Cửu Long; do đó, sẽ mất 24 triệu mỗi năm để mua phân bón thay vì lượng phốt phát (Bộ TN&MT 2015). Ở Việt Nam, bùn và đất sét ước tính giảm tương ứng 2,4 và 0,02 triệu tấn mỗi năm (tương ứng là 74% và 1%); sự giảm này sẽ dẫn đến giảm sản lượng gạo từ 2,3 đến 2,5% mỗi năm và trong sản xuất ngô từ 21 đến 22 phần trăm mỗi năm (Bộ TN&MT 2015). Để đối phó với sự suy giảm chất dinh dưỡng tự nhiên, nông dân Việt Nam sẽ cần phải mua hơn 22.000 tấn nitơ, 3.300 tấn và 11.000 tấn kali photphat. An Giang và Đồng Tháp, hai tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi lũ lụt với 50% và 20% số làng bị ảnh hưởng tương ứng. Nhìn chung, ngành Nông nghiệp Việt Nam sẽ mất hơn 3.750 tỷ đồng (Bộ TN&MT 2015).
Cuối cùng, việc phát triển thủy điện liên tục có thể có tác động xấu đến nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long bằng cách giảm nguồn cung cấp nước ngọt sạch. Mặc dù thiếu nước ngọt dường như không phải là vấn đề chính trong tương lai gần, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong thời gian dài và tạo ra một hạn chế lớn trong sản xuất nông nghiệp bằng cách giảm lượng nước ngọt cho tưới tiêu (Pearse-Smith 2012) . Hơn nữa, nước ngọt có thể sẽ bị suy thoái và trở thành một vấn đề ngày càng bức xúc do phát triển thủy điện trên sông MeKong. Trong Báo cáo của Lưu vực Nhà nước năm 2010, Ủy ban sông MeKông cho rằng sự phát triển trong công nghiệp, nông nghiệp và thủy điện đã bắt đầu ảnh hưởng đến chất lượng nước ngọt ở sông MeKong. Cho đến nay, nước ngọt ở sông MeKong thường được coi là nguồn cung cấp nước ngọt không bị ô nhiễm. Ví dụ, chất lượng nước ở hạ lưu sông Sê San là một trong những nhánh chính của sông MeKong đã bị đục hơn bởi sự gia tăng xói lở bờ sông hơn trước khi đập Yali được xây dựng trên nhánh sông này. Việt Nam nằm ở cuối dòng suối, nơi sông MeKong chảy qua trước khi đi vào Biển Đông. Như vậy, quốc gia phải đối mặt với nguy cơ cao bị nước đục "không sạch" từ luồng trên. Chất lượng nước sông ở đồng bằng sông Cửu Long tồi tệ hơn có thể làm giảm năng suất của trái cây hoặc gạo.
2.3. Tác động của phát triển thủy điện đối với nghề cá
Việc phát triển thủy điện MeKong cho dù trên dòng chính hay trên các nhánh sông có hai tác động lớn đến việc bắt cá và nuôi trồng thủy sản bằng cách bẫy cá di cư và làm suy thoái và phá hủy môi trường sống của cá.
Thứ nhất, phát triển thủy điện trên sông MeKong làm giảm lượng cá đánh bắt. Các đập thủy điện chặn lối đi và tăng thời gian đi lại của tàu, tạo ra các rào cản vật lý bổ sung cho quá trình di cư của cá (Bộ TN&MT 2015). Có khoảng 70% cá di cư dọc theo sông MeKong, di chuyển giữa các vùng thượng lưu và hạ lưu, giữa sinh cảnh biển và nước ngọt, và giữa các nhánh của sông Mê Kông và vùng đồng bằng ngập nước (Piesse 2016). Các đập thủy điện sẽ đe dọa làm gián đoạn việc di cư của cá đến đồng bằng sông Cửu Long. Cá da trơn, di cư từ thượng lưu sông MeKong, chiếm khoảng 70% cá có giá trị kinh tế cao nhất ở Việt Nam và loại cá này sẽ bị mắc kẹt hoàn toàn sau khi xây dựng các đập đề xuất trên cả dòng chính và các nhánh của sông MeKong (Bộ TN&MT 2015). Người ta đánh giá rằng các đập bổ sung sẽ làm giảm số lượng cá đánh bắt ở đồng bằng sông Cửu Long (Bộ TN&MT 2015) 50%; mức giảm này chiếm khoảng 60% tổng sản lượng cá ở Việt Nam (Piesee 2016). Thật vậy, có sự suy giảm về trữ lượng cá trong lưu vực sông MeKong sau khi xây dựng đập trên thác Vân Nam (ICEM 2010). Các đập nhánh sông MeKong được đề xuất được cho là sẽ thay thế các con sông chính là giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi sẽ dẫn đến mất cá lớn hơn (Ziv et al. 2012). Các đập nhánh sẽ giảm không chỉ việc khai thác cá nước ngọt mà còn là nghề cá biển dựa trên các chất dinh dưỡng tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh hưởng của dòng chính quy hoạch LBM đối với quần thể cá được ước tính là 'phá hoại đáng kể'. Ngoài ra, năng suất đánh bắt cá có thể bị cản trở do sự thích nghi kém của kỹ thuật đánh bắt cá như tàu đánh cá nhỏ để thay đổi chế độ của sông bằng cách phát triển thủy điện.
Thứ hai, tác động của thủy điện đối với nuôi trồng thủy sản chủ yếu là do sự gia tăng xâm nhập mặn. Các đập bổ sung trên sông MeKong đặc biệt là do các hoạt động hydropeaking của thác trong mùa khô làm trầm trọng thêm những thay đổi của chế độ dòng chảy sông (Bộ TN&MT 2015). Theo nghiên cứu tác động của thủy điện dòng chính trên sông MeKong năm 2015, hai kịch bản phát triển các thác thủy điện dòng chính (1) và dòng chảy thủy điện dòng chính cộng với sự biến đổi nước (2) sẽ dẫn đến sự gia tăng xâm nhập mặn vào đồng bằng sông Cửu Long khoảng 12 km trên các nhánh sông MeKong (Bộ TN&MT 2015). Do đó, các khu vực bị nhiễm mặn ở đồng bằng vào mùa khô sẽ mở rộng khoảng 6.450 và 3.500 kilômét vuông trong các Kịch bản 1 và 2, thu hẹp các khu vực nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nước ngọt và nước lợ (Bộ TN&MT 2015). Trên thực tế, khoảng 30-70% diện tích nuôi tôm ở vùng đồng bằng bị thiệt hại do xâm nhập mặn vào đầu năm 2016 (Bộ NN & PTNT 2016). Tỷ lệ diện tích nuôi trồng thủy sản bị nhiễm mặn được dự đoán sẽ tăng lên trong tương lai.
3. Chính sách của Việt Nam
Việt Nam coi đồng bằng sông Cửu Long là một vùng kinh tế trọng điểm tập trung vào phát triển gạo, thủy sản và nông sản cho xuất khẩu và một khu vực quyết định để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Việt Nam hướng tới việc thâm canh đồng bằng sông Cửu Long để tăng năng suất nông nghiệp và nâng cao chất lượng lúa, phát triển nghề cá bền vững như khai thác cùng với bảo vệ nguồn lợi cá, đổi mới nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái. Về thủy lợi, đồng bằng sông Cửu Long cần hoàn thành, xây dựng và nâng cấp các hệ thống thủy lợi và để phục vụ cho nhiều mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và phát triển nông thôn như nông nghiệp công nghệ cao ở Cần Thơ, lúa - tôm ở Cà Mau và Tứ giác Long Xuyên, vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt tại Cần Thơ, An Giang. Đồng bằng sông Cửu Long đầu tư xây dựng kè chống lở đất, củng cố và nâng cấp đê biển ngăn mặn xâm nhập như hệ thống đê sông Cái Lớn, đê sông Cái (Kiên Giang), kè Long Xuyên và 29 đê sông ở Cà Mau.
Chính phủ Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về tác động của các đập thủy điện dòng chính trong năm 2015 với sự tham gia của Chính phủ Lào, Campuchia và DHI, một nhóm nghiên cứu của Đan Mạch và Ngân hàng Thế giới (Bộ TN&MT 2015). Ngoài ra, chính quyền trung ương và địa phương hỗ trợ nông dân và ngư dân tài chính có cây trồng và trang trại bị hư hại. Trong năm 2015-2016, hạn hán và xâm nhập mặn, Chính phủ đã phân bổ 104 triệu USD cho đồng bằng sông Cửu Long với giá từ 45-90 USD/ha đất bị thiệt hại (Bộ NN & PTNT 2016).
4. Kết luận
Sông MeKong đã chứng kiến một số lượng lớn các đập thủy điện tăng nhanh do nhu cầu điện tăng. Tuy nhiên, việc phát triển thủy điện trên thượng nguồn có tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và thủy sản - 'nền tảng an ninh lương thực', ở các khu vực hạ lưu, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Thứ nhất, sự gia tăng các đập thủy điện làm suy giảm một số nguồn tài nguyên thiên nhiên tạo thành đầu vào thiết yếu của sản xuất nông nghiệp như đất nông nghiệp, giảm nguồn cung cấp dinh dưỡng tự nhiên từ đất và cung cấp nước ngọt sạch. Thứ hai, việc phát triển thủy điện MeKong sẽ ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản bằng cách bẫy cá di cư và làm suy thoái và phá hủy môi trường sống của cá. Để đối phó với những tác động này đối với sản xuất nông nghiệp và thủy sản và phát triển kinh tế và xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long, Chính phủ Việt Nam đã đề xuất và liên quan đến cả chính sách dài hạn và ngắn hạn. Về lâu dài, Việt Nam nên xem xét xâm nhập mặn là một cơ hội tốt cho phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long. Đất nước này cần phải nghiên cứu và xây dựng một kế hoạch ưu tiên cho nuôi cá biển và phát triển khai thác thay vì nuôi cá nước ngọt và nước lợ như hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bernama 2016, Mekong Delta loses $210 million to drought and salinity, VNExpress, <http://e.vnexpress.net/news/news/mekong-delta-loses-210-million-to-drought-and-salinity-3427037.html>.
2. Howes, S 2016, Hydropower development on the Mekong, Crawford School of Public Policy, <https://wattlecourses.anu.edu.au/mod/folder/view.php?id=930504>.
3. International Centre for Environmental Management (ICEM) 2010a, Strategic Environmental Assessment of Hydropower on the Mekong Mainstream, <http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/Consultations/SEA-Hydropower/SEA-FR-summary-13oct.pdf>.
4. Mekong River Commission (MRC) 2015, Economic value of Lower Mekong fisheries, Catch and Culture, Mekong River Commission, viewed on 20 October 2016, <http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/Catch-and-Culture/CatchCultureVol-21.3.pdf>.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) 2016, Drought and saltwater attack Mekong Delta, Vietnamnet, <http://english.vietnamnet.vn/fms/vietnam-in-photos/151545/drought-and-saltwater-attack-mekong-delta.html>.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) 2015, Study on the Impacts of Mainstream Hydropower on the Mekong River, <https://mekongeye.com/wp-content/uploads/sites/2/2016/04/MDS-Final-Project-Report-Eng.pdf>.
7. Pearse-Smith, SWD 2012, Impact of hydropower on food security in Mekong Basin, The Journal of Sustainable Development, vol.7, no.1, pp.73-86.
8. Piesse, M 2016, Livelihood and food security on the Mekong River, Strategic Analysis Paper, <https://sydney.edu.au/arts/ciss/downloads/CISS_Food_Security_Policy_Report.pdf>.
9. United Nations Environment Programme (UNEP) 2006, Mekong River, GIWA Regional Assessment 55, United Nations Environment Programme, <http://www.unep.org/dewa/giwa/areas/reports/r55/giwa_regional_assessment_55.pdf>.
10. Ziv, G, Baran, E, Nam, S, Rodriguez-Iturbe, I & Levin, SA 2012, Trading-off fish biodiversity, food security, and hydropower in the Mekong River Basin, Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, vol. 109, no 15, pp. 5609-5614.

ADVERSE IMPACTS OF THE HYDROPOWER DAM’S  IN THE MEKONG RIVER DEVELOPMENT ON VIETNAM’S

FOOD SECURITY

Master. Do Dieu Linh

Faculty of Environmental and Natural Resources Economics

Hanoi University of Natural Resources and Environment

Abstract:

The paper is to analyze the impact of hydropower dams development in the Mekong River on the aquacultural and agricultural production in Vietnam which is located in the downstream area of Mekong River. The establishment of hydropower dams leads to the degradation of agricultural land which is an essential input for the agricultural production. Moreover, dams also lead to the decline in natural nutrients of the soil, significantly reducing agricultural yields, especially for food crops. The supply and quality of fresh water from the Mekong River are also negatively impacted by dams. In addition, these dams adversely impact on the aquatic ecosystem and habitats, leading to a temporary decline in fisheries and aquacultural production in the Mekong River

Keywords: Hydropower dams in the Mekong River, aquaculture, agricultural production, food security, Vietnam.