Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu xơ sợi của cả nước đến hết tháng 9/2019 đạt 1,2 triệu tấn, trị giá trên 3 tỷ USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 3,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Trung Quốc và Hàn Quốc là hai thị trường chủ lực xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt Nam, chiếm 64,58% tổng lượng nhóm hàng, trong đó Trung Quốc đại lục có lượng xuất cao nhất 697,54 nghìn tấn, trị giá 1,77 tỷ USD, tăng 21,35% về lượng và 8,94% trị giá so với cùng kỳ, giá xuất bình quân 2548,97 USD/tấn, giảm 10,23%.
Riêng tháng 9/2019 đã xuất sang thị trường Trung Quốc 79,73 nghìn tấn, trị giá 191,81 triệu USD, giảm 8,04% về lượng và giảm 10,36% trị giá, giá bình quân giảm 2,53% ở mức 2405,77 USD/tấn so với tháng 8/2019; nếu so sánh với tháng 9/2018 thì đều tăng trưởng cả lượng và trị giá, tăng lần lượt 31,32% và 12,53%, nhưng giá bình quân giảm 14,31%.
Đối với thị trường Hàn Quốc, đứng thứ hai sau Trung Quốc đạt 102,8 nghìn tấn, trị giá 246,73 triệu USD, giá bình quân 2399,26 USD/tấn, giảm 16,57% về lượng và giảm 19,69% trị giá, giá bình quân giảm 3,74% so với cùng kỳ năm 2018.
Đông Nam Á là thị trường có lượng xuất nhiều đứng thứ ba sau Trung Quốc đại lục và Hàn Quốc, đạt 82,3 nghìn tấn, trị giá 224,67 triệu USD, tăng 7,34% về lượng và 3,99% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những thị trường chủ lực kể trên Việt Nam còn xuất sang Mỹ, Italia, Anh…
Nhìn chung, 9 tháng đầu năm nay lượng xơ sợi xuất khẩu sang các thị trường đều tăng trưởng chiếm 60%, trong đó xuất sang thị trường Brazil tăng vượt trội, tăng 57,17% về lượng và 31,88% trị giá, tuy chỉ đạt 41,7 nghìn tấn, trị giá 82,78 triệu USD, giá bình quân 1984,54 USD/tấn, giảm 16,09% so với cùng kỳ.
Riêng tháng 9/2019 xuất sang thị trường này đều sụt giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 4,19% và 7,71%, giá bình quân cũng giảm 3,68% so với tháng 8/2019 với 5,9 nghìn tấn, trị giá 9,7 triệu USD và giá bình quân 1644,27 USD/tấn; tuy nhiên so với tháng 9/2018 thì tăng mạnh, gấp 3 lần về lượng (tức tăng 201,27%) và gấp 2,3 lần về trị giá (tức tăng 130,81) nhưng giá bình quân giảm 23,39%.
Bên cạnh đó, xuất sang thị trường Anh cũng tăng mạnh, tăng 38,52% lượng và tăng 26,65% về trị giá, giá xuất bình quân giảm 8,57% so với cùng kỳ, tương ứng với 13,2 nghìn tấn; 13,67 triệu USD và giá bình quân 1029,74 USD/tấn.
Tính riêng tháng 9/2019 xuất sang thị trường Anh giảm 10,91% về lượng và giảm 8,96% trị giá, giá bình quân tăng 2,18% so với tháng 8/2019 đạt lần lượt 1,5 nghìn tấn, 1,5 triệu USD; giá xuất bình quân 979,79 USD/tấn.
Ngược lại, xuất sang thị trường Đài Loan (TQ) giảm mạnh, giảm 29,31% về lượng và giảm 30,92% trị giá, giá bình quân giảm 2,27% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng 13,5 nghìn tấn, trị giá 41 triệu USD, giá bình quân 3040,83 USD/tấn.
Đáng chú ý, cơ cấu xuất khẩu hàng xơ sợi, dệt của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2019, ngoài những thị trường chủ lực còn xuất sang một số thị trường mới nổi như: Romania với 20,31 triệu USD; Sri Lanka 28,79 triệu USD; Chile 7,34 triệu USD và Pê Ru 4,2 triệu USD.