5 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương tăng 9,9%

Từ đầu năm đến nay, mặc dù ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới phục hồi chậm và đối mặt nhiều khó khăn, thách thức nhưng sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương vẫn duy trì đà tăng trưởng khá.

Theo Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPP) tháng 5/2023 của Tỉnh tăng 3,1% so với tháng trước; trong đó, một số ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn, có tốc độ tăng cao như: Sản xuất đồ uống tăng 56,4% (do yếu tố mùa vụ làm nhu cầu tiêu thụ nước giải khát tăng); sản xuất than cốc tăng 16%; sản xuất kim loại tăng 14,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 5,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,5%.

Trong tháng 5/2023, hoạt động sản xuất công nghiệp của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tiếp tục gặp khó khăn do kinh tế thế giới phục hồi chậm; đồng thời, Trung Quốc mở cửa trở lại làm gia tăng cạnh tranh ở các thị trường xuất khẩu chính. Mặc dù khu vực công nghiệp đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tuy nhiên một số ngành vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá như: Chế biến thực phẩm; sản xuất sản phẩm từ kim loại (cơ khí); sản xuất ô tô; sản xuất và phân phối điện... 

sản xuất công nghiệp Hải Dươn
Sản xuất xe có động cơ là một trong những điểm sáng của khu vực công nghiệp tỉnh Hải Dương thời gian qua.

Điểm sáng từ lĩnh vực sản xuất xe có động cơ

So với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp tháng 5/2023 bằng 107,3%. Sản xuất ở một số ngành trọng điểm chưa tăng trở lại đã tác động ngược chiều đến chỉ số chung toàn ngành như: Sản xuất trang phục bằng 88,4%; sản xuất than cốc bằng 86,7%; sản xuất thiết bị điện bằng 59,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại bằng 98,9%. Tuy nhiên điểm sáng từ chế biến thực phẩm (+12,7%); sản xuất xe có động cơ (+23,7%); sản xuất và phân phối điện (+14,5%) đã giúp hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng khá cao.

Tính chung 5 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có tỷ trọng lớn, có chỉ số tăng cao tác động nhiều đến chỉ số chung của toàn ngành. Cụ thể, sản lượng xe có động cơ 5 tháng đầu năm tăng 24,9%, tác động làm chỉ số chung toàn ngành công nghiệp tăng 6,2 điểm%; trong đó, xe có động cơ chở được từ 05 người trở lên tăng 145%; bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ tăng 11,7%. Ngành sản xuất điện tử tăng 8,3%, tác động làm chỉ số chung tăng 1,5 điểm%; trong đó, mạch điện tử tích hợp tăng 4,3%; Máy kết hợp in, quét, fax, copy… tăng 21%.

Một số dự án mới đi vào hoạt động trong các tháng đầu năm như Công ty TNHH Doosan Electro-materials VN, Dự án sản xuất TK Precision technology Việt Nam, Dự án Công ty TNHH Linh kiện điện tử Wanshih (Việt Nam)... đã góp phần vào mức tăng chung của ngành.

Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 13,7%, tác động làm chỉ số chung tăng 0,8 điểm%; trong đó, sản phẩm thức ăn chăn nuôi tăng 17,0%. Với việc dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt; xu hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang quy mô lớn nên nhu cầu thức ăn chăn nuôi tăng khá cao.

Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,7% làm chỉ số chung toàn ngành công nghiệp tăng 1,1 điểm%. Nhu cầu tiêu thụ điện tăng do thời tiết nắng nóng và các hồ thuỷ điện thiếu nước; đồng thời, giá than nguyên liệu đầu vào có xu hướng giảm, nên sản lượng nhiệt điện sản xuất dự ước có mức tăng trưởng cao.

Sản xuất hàng may mặc, giày dép vẫn gặp khó

Ở chiều ngược lại, một số ngành có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm, đã tác động trái chiều đến mức tăng trưởng chung. Trong đó, ngành sản xuất kim loại và các sản phẩm từ khoáng phi kim loại sản lượng 5 tháng đầu năm bằng 100,9% và 98,6%. Do thị trường bất động sản tiếp tục trầm lắng, các dự án khu dân cư vướng thủ tục pháp lý, kéo theo nhu cầu vật liệu xây dựng không cao. Từ đầu năm đến nay, Công ty CP Thép Hoà Phát phải ngừng 01 lò cao, Công ty TNHH MTV Vicem Xi măng Hoàng Thạch cũng ngừng 01 lò sản xuất clanke trong quý I, nên sản lượng thép, xi măng đều giảm lần lượt 0,1% và 2,8%.

Ngành may mặc, giày dép do các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU, Nhật Bản đều suy giảm do tình hình lạm phát, sức tiêu dùng suy giảm; trong ngắn hạn chưa có tín hiệu phục hồi; đồng thời Trung Quốc mở cửa trở lại làm nguồn cung tăng đột biến trong khi cầu thấp, gây áp lực lớn lên giá sản xuất hàng hóa... Hầu hết doanh nghiệp may mặc, da giày thiếu hụt đơn hàng, công nhân phải nghỉ việc hoặc làm việc luân phiên. Sản lượng của 2 ngành này lần lượt giảm 9,3% và 3,8%, tác động làm chỉ số chung giảm 0,7 điểm%.

Sản xuất than cốc giảm 26,8%; tác động làm chỉ số chung giảm 0,3 điểm%. Nguyên nhân do một lò cao luyện thép của Công ty CP Thép Hòa Phát vẫn đang tạm dừng từ đầu năm.

Ngành sản xuất thiết bị điện giảm 31,2% làm chỉ số chung giảm 1,2 điểm%. Nguyên nhân do một doanh nghiệp lớn trong ngành là Công ty TNHH Ducar Việt Nam chủ yếu sản xuất máy phát điện để xuất sang thị trường Mỹ, nhưng từ cuối năm 2022 tới nay, thị trường này bị ảnh hưởng bởi lạm phát, số lượng đơn hàng suy giảm mạnh.

công nghiệp Hải Dương
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương)

Lao động trong nhiều ngành công nghiệp giảm

Cũng theo cập nhật của Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh tại thời điểm 01/5/2023 dự ước bằng 100,6% so với tháng trước, bằng 93,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, số lượng lao động bằng 96,4%.

Nguyên nhân chỉ số sử dụng lao động giảm là do một số ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, giày dép, sản xuất đồ chơi phải cắt giảm lao động do sự thiếu hụt đơn hàng. Một số doanh nghiệp không có việc làm buộc phải cho lao động nghỉ phép luân phiên hoặc cắt giảm lao động.

Trong đó, một số ngành có lượng lao động 5 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ là khai khoáng khác bằng 42,3%; sản xuất trang phục bằng 88,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan bằng 98,5%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ bằng 78,1%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy bằng 98%; sản xuất than cốc bằng 82%; sản xuất thiết bị điện bằng 77,5%...

Các ngành có chỉ số sử dụng lao động 5 tháng đầu năm tăng so với cùng kỳ năm trước là: sản xuất, chế biến thực phẩm bằng 103,5%; sản xuất đồ uống bằng 101,7%; dệt bằng 105,8%; sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất bằng 101%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn bằng 102,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học bằng 104,4%; sản xuất xe có động cơ bằng 107,7%...

Việt Hằng