Cam kết sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong Hiệp định RCEP

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, mở ra triển vọng hợp tác đầu tư giữa các quốc gia trong khu vực, thúc đẩy toàn cầu hóa bền vững. Bên cạnh các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hải quan, hài hòa quy tắc xuất xứ, tạo thuận lợi cho thương mại…, RCEP còn hướng đến việc xác lập, sử dụng, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí một cách hiệu quả.

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) là một hiệp định thương mại tự do giữa các quốc gia thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand. RCEP hứa hẹn sẽ tạo ra nguồn động lực cần thiết để phục hồi cho các doanh nghiệp và người dân trong khu vực, đặc biệt là giữa bối cảnh khủng hoảng do đại dịch COVID-19 hiện nay.

Với mục tiêu mở ra triển vọng hợp tác và đầu tư giữa các quốc gia, RCEP đã đưa ra các quy định nhằm hướng tới việc giảm thiểu ảnh hưởng và trở ngại đối với thương mại và đầu tư. Trong đó, việc xác lập, sử dụng, bảo hộ và thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, được đề cập tại Chương 11 của Hiệp định, cũng được coi là một trong số những phương thức quan trọng để thực hiện mục tiêu chung của Hiệp định. Dưới đây là những nội dung chính xoay quanh các quy định về sở hữu trí tuệ của RCEP, cũng như thách thức và cơ hội đặt ra cho Việt Nam với tư cách là một quốc gia thành viên của Hiệp định.

Tổng quan về Hiệp định RCEP

Các cuộc đàm phán trong khuôn khổ RCEP bắt đầu với 16 quốc gia bao gồm 10 quốc gia thuộc ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia và New Zealand. Ngay cả khi Ấn Độ rút lui vào năm 2019, đây vẫn là hiệp định lớn nhất thế giới với ước tính chiếm 30% GDP và hơn 27% thương mại hàng hóa toàn cầu. Đây cũng là hiệp định thương mại tự do đầu tiên giữa những cường quốc kinh tế Châu Á gồm Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.

Được đặc biệt thúc đẩy bởi Trung Quốc, khối thương mại RCEP đã trở nên nổi bật trong thương mại và đầu tư toàn cầu, đồng thời vượt xa tốc độ phát triển của các khối thương mại lớn có thu nhập cao trong thời gian qua. Sau khi được phê duyệt, RCEP sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại bằng các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, hài hòa quy tắc xuất xứ, đơn giản hóa thủ tục hải quan.

Trong bối cảnh tranh chấp thương mại Mỹ – Trung và đại dịch COVID-19 tiếp tục gây căng thẳng cho chuỗi cung ứng toàn cầu, RCEP được kỳ vọng sẽ tạo ra động lực cần thiết để các công ty phục hồi thông qua việc làm sâu sắc hơn các mối quan hệ thương mại giữa các nước. Ngoài ra, RCEP cũng giúp tạo điều kiện thúc đẩy cho các quốc gia có nền kinh tế nhỏ trong khu vực và giảm khoảng cách phát triển giữa các thành viên khối ASEAN.

Hiệp định RCEP
Hiệp  định RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng cường vị thế thương mại và thúc đẩy quá trình phục hồi hậu đại dịch. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam được hưởng lợi từ hiệp định này bao gồm công nghệ thông tin, dệt may, da giày, nông nghiệp, ô tô và viễn thông.

RCEP bao gồm 20 chương và các phụ lục, là một hiệp định mang tính toàn diện cả về phạm vi và chiều sâu của các cam kết. Ngoài các quy định chung tại Chương 1 và Chương 20, nội dung chính của Hiệp định là các điều khoản liên quan đến thương mại hàng hóa (Chương 2); quy tắc xuất xứ (Chương 3); thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại (Chương 4); các biện pháp vệ sinh thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Chương 5); tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá mức độ phù hợp (Chương 6); phòng vệ thương mại (Chương 7); thương mại dịch vụ (Chương 8); di chuyển tạm thời của thể nhân (Chương 9); đầu tư (Chương 10); sở hữu trí tuệ (Chương 11); thương mại điện tử (Chương 12); cạnh tranh (Chương 13); doanh nghiệp vừa và nhỏ (Chương 14); hợp tác kinh tế và kỹ thuật (Chương 15); mua sắm công (Chương 16); và các lĩnh vực thể chế pháp lý cũng như giải quyết tranh chấp (Chương 17 – 19).

Ngoài ra, Hiệp định còn kèm theo danh sách các giai đoạn chuyển tiếp cụ thể dành riêng cho từng thành viên và yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật.

Tại Chương 11, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đã được đề cập tới như một biện pháp nhằm giảm thiểu những cản trở và khó khăn trong thương mại và đầu tư. Với sự phát triển của toàn cầu hóa, công nghệ và đổi mới đã trở thành những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của các quốc gia và khu vực trên thị trường. Do vậy, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở quy mô quốc tế đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Với tư cách là một hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, RCEP cũng không đứng ngoài xu thế này.

Cụ thể, bên cạnh các nguyên tắc cơ bản đã được tuân thủ nghiêm ngặt, Chương 11 của RCEP mang nét độc đáo riêng, với đặc điểm nổi bật là tập trung nhiều hơn vào sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ để ngăn chặn việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Chương này bao quát nhiều khía cạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ như quyền tác giả, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian, tên miền. Chương cũng khuyến khích các thành viên tham gia các Công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, cũng như tái khẳng định quyền sử dụng các biện pháp linh hoạt đã được công nhận trong Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng, đồng thời bao gồm các điều khoản liên quan đến Nguồn gen, Tri thức truyền thống và Văn hóa dân gian.

Về cơ bản, Chương 11 của RCEP được xây dựng dựa trên WTO và Hiệp định TRIPS. Các cam kết về sở hữu trí tuệ trong RCEP mang tính toàn diện và ở mức cao hơn so với cam kết trong các Hiệp định khác của ASEAN (ví dụ như các Hiệp định ASEAN+1).

Tuy nhiên, thay vì tạo áp lực nâng cấp hệ thống bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với các thành viên lên một tầm cao mới, đỏi hỏi các thành viên phải đánh đổi các lợi ích trong đàm phán thì sở hữu trí tuệ trong RCEP được xây dựng theo cơ chế dựa trên nền tảng sở hữu trí tuệ, trình độ và kiến trúc thượng tầng vốn có của các nước thành viên. Do đó, các cam kết trong chương này không phải là một thách thức lớn về sở hữu trí tuệ đối với Việt Nam bởi trên thực tế, nước ta đã và đang tiếp tục nội luật hóa những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).

Các nội dung chính về sở hữu trí tuệ trong RCEP

RCEP đưa ra cách tiếp cận cân bằng và toàn diện về việc bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Một trong những điểm đáng chú ý nhất tại Chương 11 về Sở hữu trí tuệ của RCEP chính là đưa ra cách tiếp cận cân bằng và toàn diện về việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong khu vực. Ngay tại điều đầu tiên của Chương đã quy định, việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần thúc đẩy đổi mới, chuyển giao và phổ biến công nghệ, vì lợi ích chung giữa nhà sản xuất và người sử dụng tri thức, cũng như cách thức có lợi cho phúc lợi xã hội và kinh tế. Thông qua đó, RCEP yêu cầu các thành viên áp dụng biện pháp thích hợp để ngăn chặn việc người có quyền lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ hoặc sử dụng các hành vi hạn chế thương mại một cách bất hợp lý hoặc ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ quốc tế.

Cụ thể, phần thực thi của Chương quy định rằng các thủ tục này phải được áp dụng theo cách để tránh tạo ra rào cản đối với thương mại hợp pháp và cung cấp biện pháp tự vệ chống lại việc lạm dụng chúng. Về cơ bản, RCEP cam kết hài hòa mức độ bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ dựa trên cơ sở các quy định trong Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, dù nguyên tắc cân bằng lợi ích đã được quy định trong Hiệp định TRIPS, chức năng của nó đã bị giảm đi do một số quốc gia phát triển muốn duy trì vị thế cạnh tranh của họ. Đặc biệt là khi một số các quốc gia thành viên trong RCEP cũng tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương khác trong đó đòi hỏi mức thực thi quyền và bảo vệ quyền đối với chủ sở hữu luôn ở mức cao và thử thách. Vì vậy, RCEP đang cố gắng thay đổi tình trạng này bằng cách nhấn mạnh một cách thích hợp ý nghĩa của việc sử dụng hợp lý, chuyển giao công nghệ và phúc lợi kinh tế xã hội trong cộng đồng quốc tế.

RCEP trong mối tương quan với hiệp định TRIPS

Một điều dễ nhận thấy là nội dung của TRIPS đã được RCEP sử dụng trong Chương quy định về sở hữu trí tuệ. Ví dụ, dưới tiêu đề “Mục tiêu” và “Nguyên tắc” của Chương 11, RCEP chủ yếu mượn nội dung của Điều 7 và 8 của Hiệp định TRIPS.

Về nguyên tắc, RCEP dường như thừa nhận toàn bộ sự cân bằng và tính linh hoạt được kết hợp trong TRIPS. RCEP cũng công nhận Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng, và các Bên xác nhận việc sử dụng các khả năng linh hoạt để thúc đẩy sức khỏe cộng đồng. Điều này cũng phù hợp với các điều khoản có trong Lời mở đầu RCEP, theo đó các Bên thừa nhận rằng cần có các hình thức linh hoạt phù hợp dựa trên mức độ phát triển giữa các Bên. RCEP cũng quy định rằng trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa các điều khoản trong hiệp ước này và TRIPS, điều khoản trong TRIPS sẽ được ưu tiên áp dụng.

Ngoài ra, một điểm mới của RCEP nằm ở điều khoản linh hoạt hơn liên quan đến các ngoại lệ và giới hạn đối với bản quyền. Sau khi nhắc lại nguyên tắc áp dụng của Kiểm tra ba bước (một nguyên tắc quan trọng trong TRIPS), Điều 11.18 của RCEP quy định rằng:

  • Mỗi Bên, khi quy định các giới hạn và ngoại lệ phù hợp với khoản 1 nói trên, phải nỗ lực quy định sự cân bằng thích hợp trong hệ thống quyền tác giả, quyền liên quan của mình vì các mục đích được pháp luật cho phép như giáo dục, nghiên cứu, phê bình, bình luận, viết tin tức, và tạo điều kiện tiếp cận các tác phẩm đã xuất bản cho người mù, người khiếm thị hoặc người khuyết tật về thị giá.
  • Để rõ ràng hơn, miễn là các giới hạn hoặc ngoại lệ được quy định như nêu tại khoản 1 nói trên, một Bên có thể áp dụng hoặc duy trì các giới hạn hoặc ngoại lệ đối với các quyền nêu tại khoản 1 nhằm mục đích sử dụng hợp lý.”

Hơn nữa, RCEP thừa nhận rằng các hạn chế và ngoại lệ về sử dụng hợp pháp có thể tương thích với thử nghiệm ba bước của TRIPS (khác so với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)).

Bên cạnh đó, RCEP cũng có điểm khác biệt khi quy định trong một số trường hợp, ngôn ngữ được sử dụng trong một số điều khoản có thể được diễn giải theo cách hạn chế, thu hẹp tính linh hoạt của TRIPS. Ví dụ, Điều 11.38 về các ngoại lệ đối với các quyền được cấp bằng sáng chế đưa ra các ngoại lệ giới hạn đối với độc quyền miễn là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn một cách bất hợp lý với việc khai thác bình thường bằng sáng chế. Quy định nói trên tương tự như Điều 30 TRIPS. Chứng tỏ rằng điều khoản này không hạn chế bất kỳ loại ngoại lệ nào. Ngoài ra, Điều 11.40 bao gồm việc sử dụng thử nghiệm các sáng chế. Việc đưa vào trường hợp ngoại lệ sử dụng thử nghiệm sáng chế là một bước đi đáng ghi nhận vì các hiệp định trước đây như CPTPP đã không đạt được đồng thuận.

RCEP trong mối tương quan với CPTPP

Đối với quyền SHTT, cả CPTPP và RCEP đều có các chương quy định về chủ đề này. Tuy nhiên, hai hiệp định này có những khác biệt đáng kể, xuất phát từ ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Trung Quốc lần lượt trong hiệp định CPTPP và RCEP. RCEP được biết đến là là thỏa thuận đa phương đầu tiên của Trung Quốc và nó tuân theo thỏa thuận Thương mại giai đoạn một giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. So với CPTPP, các quy tắc về sở hữu trí tuệ của RCEP chỉ bổ sung ít nhiều so với những gì nhiều thành viên RCEP đã có.

Một điểm đáng chú ý khác là việc đưa các điều khoản CPTPP bị đình chỉ vào RCEP. Ví dụ, điều khoản CPTPP bị đình chỉ đối với Các biện pháp Công nghệ Bảo vệ Quyền được đưa vào RCEP. Điểm khác biệt duy nhất là RCEP không hình sự hóa rõ ràng hành vi gian lận Các biện pháp Công nghệ Bảo vệ Quyền như một hành vi phạm tội, không phụ thuộc vào sự tồn tại của vi phạm bản quyền. Ngoài ra, RCEP cung cấp quyền tự do xác định phạm vi của Các biện pháp Công nghệ Bảo vệ Quyền cũng như các giới hạn và ngoại lệ tương ứng.

Các biện pháp bảo vệ công nghệ và thực thi trong môi trường kỹ thuật số, quy tắc quốc tế về bảo vệ nguồn gen trong trong RCEP

Mặc dù quy định rằng Hiệp định TRIPS sẽ được ưu tiên trong trường hợp có bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa RCEP và TRIPS, trên thực tế, RCEP chứa đựng những cam kết chưa được đề cập trong TRIPS hoặc cao hơn chuẩn mực của TRIPS. Cụ thể, RCEP đưa ra các điều khoản liên quan đến các biện pháp bảo vệ công nghệ và thực thi trong môi trường kỹ thuật số. Bên cạnh đó, Chương cũng đưa ra quy định về các chế tài hình sự, giúp làm rõ hơn các nghĩa vụ về thực thi quyền bằng biện pháp hình sự trong Hiệp định TRIPS.

Về vấn đề bảo vệ công nghệ, các bên cần quy định việc bảo hộ một cách đầy đủ và đưa ra các chế tài hiệu quả để xử lý việc can thiệp vào các biện pháp công nghệ hữu hiệu mà các chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan đã sử dụng nhằm thực thi các quyền cũng như ngăn chặn các hành vi nằm ngoài sự cho phép của họ và của pháp luật. Về vấn đề thực thi trong môi trường kỹ thuật số, RCEP khẳng định rằng các biện pháp xử lý dân sự và hình sự cũng phải được áp dụng cùng phạm vi trong môi trường này đối với các hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan và nhãn hiệu. Đây là những điểm đáng lưu tâm, cho thấy kệ thống pháp lý đang bắt kịp được với xu thế phát triển toàn cầu.

Về các chế tài xử lý hình sự, tại Tiểu mục 4 của Mục J, Chương đưa ra yêu cầu về các thủ tục và hình phạt hình sự đối với hành vi sao chép trái phép các tác phẩm thuộc quyền tác giả và nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu. Đặc biệt, sự cần thiết trong việc xử lý hình sự đối với hành vi sao chép trái phép tác phẩm điện ảnh ở quy mô thương mại cũng được đề cập. Quy định này có thể xem là một bước tiến tích cực trong việc thực thi quyền tác giả, quyền liên quan trong thời kỳ công nghệ số như hiện nay.

Một điểm quan trọng khác trong chương SHTT của RCEP là đã dành riêng Mục G để đưa ra các quy tắc quốc tế về bảo vệ nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian. Tại mục này, RCEP yêu cầu mỗi bên thiết lập các biện pháp thích hợp để bảo vệ những đối tượng trên. Đây là lần đầu tiên các vấn đề này được ghi nhận trong chương SHTT của một hiệp định thương mại. Điều này đánh dấu sự tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT quốc tế, về việc quan tâm đến lợi ích cốt lõi của các nước đang phát triển, là những nước giàu tài nguyên về nguồn gen và truyền thống văn hóa, nhưng thiếu tài sản công nghiệp, chẳng hạn như các bằng sáng chế về dược phẩm, kiểu dáng công nghiệp hay bí mật kinh doanh.

RCEP đặt ra yêu cầu cải tiến thủ tục liên quan đến Sở hữu trí tuệ

Cũng giống như các hiệp định CPTPP hay EVFTA khi mà các thành viên luôn đặt trong yêu cầu phải cải thiện các thủ tục liên quan đến sở hữu trí tuệ, RCEP cũng đưa ra nội dung liên quan như vậy. Hiệp định RCEP đặt ra yêu cầu cho các nước thành viên phải tiếp tục rà soát và nỗ lực để cải thiện các thủ tục hành chính về quyền sở hữu trí tuệ.

Về mặt yêu cầu, những vấn đề liên quan đến việc hợp lý hóa các yêu cầu về thủ tục trên giấy tờ đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu đã được lưu ý. Cụ thể, các bên tham gia phải nỗ lực để tinh giản bất kỳ yêu cầu về thủ tục nào liên quan đến chứng nhận bản dịch hay xác nhận chữ ký trong đơn đăng ký xác lập quyền cho các đối tượng này. Ngoài ra, Chương cũng đề cập tới những quy định yêu cầu các bên phải minh bạch trong thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp.

Về mặt cách thức, việc tổ chức một hệ thống trực tuyến để nộp và xử lý đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu cũng được khuyến khích. Theo đó, việc công khai dữ liệu lên một hệ thống trực tuyến cho tất cả các bước từ nộp đơn tới khi có kết quả cuối cùng đối với các thủ tục xác lập quyền, phản đối, yêu cầu hủy/chấm dứt hay duy trì liệu lực đều được thúc đẩy, nhằm tạo một môi trường pháp lý minh bạch và dễ dàng tiếp cận cho các chủ thể quyền.

Với các quy định này, RCEP đã cam kết tạo thuận lợi hơn cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với mục đích thu hút đầu tư ổn định, lâu dài từ bên ngoài, trong đó có các nước đối tác vào thị trường ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Rào cản sẽ được gỡ bỏ khi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành một cách đơn giản và thuận tiện hơn nhờ sự đơn giản hóa các thủ tục cả về mặt yêu cầu cũng như cách thức tiến hành.

Những cam kết trên tạo ra áp lực cho cơ quan nhà nước Việt Nam, cụ thể là Cục sở hữu trí tuệ sẽ phải nâng cấp hệ thống dữ liệu, cổng dữ liệu để đáp ứng được yêu cầu từ RCEP dù yêu cầu này cũng đã được đặt ra trong các hiệp định CPTPP và EVFTA mà Việt Nam đã ký kết.

RCEP đưa ra quy định làm cân bằng lợi ích hợp pháp giữa chủ thể quyền với lợi ích của người sử dụng và lợi ích cộng đồng

Không chỉ vậy, Chương 11 còn chứa các quy định nhằm cân bằng lợi ích hợp pháp giữa chủ thể quyền với lợi ích của người sử dụng và lợi ích cộng đồng. Theo đó, RCEP tái khẳng định Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng được thông qua ngày 14/11/2001. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 như hiện nay, các quy định này là vô cùng cần thiết, giúp củng cố giá trị nhân văn của các Hiệp ước quốc tế nói chung và RCEP nói riêng, qua đó góp phần kiến tạo sự bình đẳng giữa mỗi cá thể về quyền được tiếp cận dược phẩm một cách hợp lý.

Có thể thấy, RCEP là một Hiệp định đề cao tinh thần hợp tác quốc tế. Không giống như các hiệp định thương mại khu vực khác buộc các thành viên khác phải chấp nhận các điều khoản bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tiêu chuẩn cao và nghiêm ngặt, RCEP đã áp dụng một cách tiếp cận ôn hòa hơn để tăng cường sử dụng và bảo vệ sở hữu trí tuệ thông qua hợp tác.

Nhận thức được sự khác biệt đáng kể về năng lực giữa các bên liên quan, RCEP yêu cầu mỗi bên phải hợp tác và tham gia vào các cuộc đối thoại để tạo điều kiện thực hiện hiệu quả chương sở hữu trí tuệ của mình. Tinh thần này được cụ thể hóa tại Mục K về Hợp tác và tham vấn, cũng như Mục M về Thời hạn chuyển tiếp và hỗ trợ kỹ thuật. Đặc biệt, phụ lục đính kèm đã liệt kê rõ ràng các yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật đối với một số quốc gia nhất định. Ví dụ, tại Phụ lục 11B liệt kê Campuchia, Lào và Myanmar đều đang yêu cầu hỗ trợ thiết lập hệ thống ứng dụng điện tử để xử lý, đăng ký và duy trì nhãn hiệu; hay Việt Nam với yêu cầu hỗ trợ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn để thực hiện việc nội luật hóa các Điều ước quốc tế đã tham gia cũng như thúc đẩy việc tham gia các Hiệp ước mới.

Với nỗ lực gỡ bỏ những rào cản liên quan đến thủ tục, cũng như tháo gỡ những khó khăn thực tế trong vấn đề thực thi, các quy định về sở hữu trí tuệ tại Chương 11 của RCEP hướng tới việc thúc một môi trường đẩy đổi mới và sáng tạo, nhằm duy trì sự cân bằng hợp lý giữa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, cũng như khuyến khích việc truyền bá thông tin, kiến thức, văn hóa và nghệ thuật.

Triển vọng thực thi các cam kết sở hữu trí tuệ trong hiệp định RCEP đối với Việt Nam

Với tư cách là một Hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, việc ký kết thành công RCEP đánh dấu một cột mốc lịch sử trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của các quốc gia ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Đối với hệ thống doanh nghiệp, RCEP đã mở ra một thị trường xuất khẩu với nhiều cơ hội tiềm năng, ổn định và lâu dài. Hiệp định cũng tạo ra một khuôn khổ pháp lý ràng buộc, giúp hình thành một sân chơi công bằng cho các quốc gia. Trong đó, Việt Nam có thể nhận được nhiều lợi ích từ RCEP.

Các nước tham gia Hiệp định đều là những thị trường tiềm năng với nhu cầu nhập khẩu lớn các mặt hàng nông – thủy sản, là những mặt hàng thuộc thế mạnh của nước ta. Với những cam kết mở cửa về vận chuyển hàng hóa và thương mại điện tử, RCEP cũng giúp việc giao thương quốc tế trở nên dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, sự hài hòa về các quy tắc xuất xứ nội khối giúp Việt Nam tăng khả năng đáp ứng điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng tính cạnh tranh đối với hàng hóa của nước ta khi xuất khẩu trong khu vực. Bên cạnh đó, với nỗ lực gỡ bỏ các rào cản thương mại, RCEP cũng sẽ giúp Việt Nam thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài tiềm năng.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội là thách thức đặt ra. RCEP sẽ mang lại sức ép cạnh tranh hàng hóa lớn cho Việt Nam do nhiều quốc gia khác trong khu vực cũng có cơ cấu sản phẩm tương tự nước ta, nhưng năng lực cạnh tranh lại cao hơn hẳn so với chúng ta hiện tại. Một ví dụ điển hình là Trung Quốc. Đây là một đối tác có lợi thế lớn về nguồn hàng và khối lượng hàng phong phú và giá rẻ. Quốc gia này đặt ra những thách thức cạnh tranh không hề nhỏ đối với nước ta, đặc biệt là đối với những mặt hàng thế mạnh như nông – thủy sản. Không chỉ vậy, thách thức còn đặt ra cả với việc kinh doanh nội địa khi thị trường trong nước mở cửa thông qua RCEP. Thách thức này sẽ càng lớn hơn khi mà thị hiếu tiêu dùng trong nước đa số vẫn ưu tiên hàng hóa nhập khẩu. Do đó, bên cạnh việc đón nhận những thuận lợi, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với những khó khăn mới.

Mặc dù vậy, đây là những khó khăn tất yếu khi tham gia bất cứ một hiệp định thương mại tự do nào. Doanh nghiệp sẽ luôn phải đối mặt với thách thức song song với những lợi ích mà việc mở cửa thị trường đem lại. Để góp phần tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp khi Việt Nam tham gia RCEP, Nhà nước cùng các bộ, ban, ngành liên quan nên tổ chức những chương trình đào tạo nhằm phổ biến các thông tin của RCEP tới bộ phận doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc xây dựng các chương trình nhằm hỗ trợ và nâng cao kiến thức của doanh nghiệp trong vấn đề cạnh tranh và gia tăng giá trị sản phẩm cũng nên được ưu tiên tiến hành.

Đối với toàn hệ thống pháp luật nói chung và sở hữu trí tuệ nói riêng, về cơ bản, những cam kết về Sở hữu trí tuệ trong RCEP khá tương đồng với các hiệp định Việt Nam đã và gần đây ký kết như TRIPS, CPTPP, EVFTA mà hiện nay Việt Nam đã nội luật hoá đa phần các cam kết này. Hiện nay, dự thảo luật sở hữu trí tuệ đang tiến hành sửa đổi cũng đã tích hợp nhiều điều khoản về ngoại lệ, giới hạn quyền, thực thi quyền theo đúng tinh thần đảm bảo sự hài hoà trong khai thác quyền của chủ thể quyền và người sử dụng. Chính vì vậy, mặc dù có những quy định khác biệt nhất định về sở hữu trí tuệ trong RCEP, tuy nhiên đây là khác biệt không đáng kể. Theo đó, Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng các yêu cầu về sở hữu trí tuệ trong RCEP. Chính vì vậy, sở hữu trí tuệ trong RCEP không phải là trở ngại hay thách thức lớn đối với Việt Nam khi tham gia RCEP.

RCEP không phải là một thách thức lớn với Việt Nam do các cam kết trong Hiệp định không quá mới, và chủ yếu được xây dựng dựa trên tinh thần hợp tác cùng phát triển thay vì đặt nặng yêu cầu nâng cao ngay lập tức hệ thống pháp lý của các thành viên. Do đó, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, với xu hướng tiếp cận các nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Tường Vy