Lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo, một số thủy điện phải dừng phát điện

Báo cáo cập nhật của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) về tình hình vận hành hồ chứa thủy điện cho biết, ngày 8/6 một số hồ ở mực nước chết, một số thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo.
hồ thủy điện
Báo cáo cập nhật ngày 8/6 của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp cho biết, một số hồ ở mực nước chết, một số thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo.

Một số thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo

Báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Cục ATMT) báo cáo Bộ trưởng Bộ Công Thương cập nhật ngày hôm nay 8/6/2023 về tình hình vận hành hồ chứa thủy điện cho biết, trên cả nước, lưu lượng nước về hồ tăng nhẹ so với ngày hôm qua nhưng vẫn thấp.

Mực nước các hồ khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ thấp, một số hồ xấp xỉ, dưới mực nước chết; Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành. Lượng nước về hồ chủ yếu để điều tiết nước đảm bảo dòng chảy tối thiểu, các nhà máy thủy điện vận hành phát điện bằng lưu lượng nước về, một số nhà máy phải dừng để đảm bảo an toàn cho tổ máy khi vận hành với lưu lượng và cột nước thấp dưới thiết kế, khó có thể đáp ứng đươc việc phát điện theo quy trình vận hành hồ chứa tại thời kỳ này.

Một số hồ ở mực nước chết: Lai Châu, Sơn La, Thác Bà, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Hủa Na, Trung Sơn, Thác Mơ, Trị An. Một số thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo: Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Thác Bà, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Hủa Na, Trung Sơn, Trị An, Đại Ninh, Pleikrong.

"Dự báo tình hình thủy văn, lưu lượng nước về hồ 24 giờ tới tăng nhẹ, vẫn thấp; mực nước hồ dao động nhẹ ở mức thấp", Báo cáo của Cục ATMT cho biết.

Thông tin tại cuộc gặp gỡ báo chí nhằm cung cấp thông tin về tình hình cung ứng điện năm 2023 do Bộ Công Thương tổ chức chiều ngày 7/6, ông Trần Việt Hòa - Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực, Bộ Công Thương, tình hình nắng nóng gay gắt và tác động của hiện tượng El Nino diễn ra tại nhiều địa phương trên cả nước đã làm tăng nhu cầu điện sinh hoạt của nhân dân, kết hợp với tình trạng nước về các hồ thuỷ điện rất thấp đã gây ảnh hưởng rất lớn đến việc đảm bảo cung ứng điện trong mùa khô năm 2023.

Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, mặc dầu EVN, PVN, TKV và các bộ, cơ quan có liên quan đã nỗ lực thực hiện một số giải pháp cấp bách nhưng đến nay đã xuất hiện những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm cung ứng đủ điện trọng thời gian tới, đặc biệt là ở miền Bắc với đặc trưng là nguồn thuỷ điện chiếm tỷ trọng lớn 43,6%.

Về lưới điện, khả năng truyền tải điện từ miền Trung ra miền Bắc qua đường dây 500 kV Bắc - Trung luôn ở ngưỡng giới hạn cao (giới hạn tối đa từ 2.500 MW đến 2.700 MW) dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ sự cố.

Như vậy, tổng công suất khả dụng của hệ thống điện miền Bắc (bao gồm cả điện nhập khẩu) có thể huy động để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện chỉ đạt mức 17.500-17.900MW (khoảng 59,2% công suất lắp đặt)”, ông Trần Việt Hòa cho biết. Công suất này đã bao gồm khoảng từ 2.500 đến 2.700 MW truyền tải từ miền Nam và miền Trung ra Bắc (cung đoạn đường dây 500kV Nho Quan - Hà Tĩnh).

Trong khi đó, nhu cầu sử dụng điện ở khu vực miền Bắc có thể lên mức 23.500-24.000 MW trong những ngày nắng nóng sắp tới. Như vậy, hệ thống điện miền Bắc sẽ thiếu hụt khoảng 4.350 MW với sản lượng không đáp ứng được trung bình ngày khoảng là 30,9 triệu kWh (ngày cao nhất có thể lên tới 50,8 triệu kWh). Hệ thống điện miền Bắc đối mặt với nguy cơ thiếu công suất tại hầu hết các giờ trong ngày.

Cập nhật tình hình cụ thể tại các hồ thủy điện trên cả nước

Khu vực Bắc Bộ

Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, dao động nhẹ so với ngày hôm qua. Cụ thể, hồ Lai Châu 102 m3/s; hồ Sơn La 118 m3/s; hồ Hòa Bình 311m3/s; hồ Thác Bà 76m3/s; hồ Tuyên Quang 110 m3/s; hồ Bản Chát 11 m3/s.

Trừ hồ Hòa Bình, mực nước các hồ ở mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/mực nước chết). Cụ thể, hồ Lai Châu 265.5 m/270m; hồ Sơn La 175.05/175m; hồ Hòa Bình 103.58/80m (yêu cầu mực nước tối thiểu: 81.9m); hồ Thác Bà 45.66/46m (yêu cầu tối thiểu: 46.5m); hồ Tuyên Quang 90.75/90m (yêu cầu tối thiểu: 90.7m); hồ Bản Chát 431.80m/431m.

Khu vực Bắc Trung Bộ

Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày hôm qua. Cụ thể, hồ Trung Sơn 81m3/s; hồ Bản Vẽ 38m3/s; hồ Hủa Na 45m3/s; hồ Bình Điền 7m3/s; hồ Hương Điền 16m3/s.

Mực nước các hồ ở xấp xỉ mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/mực nước chết). Trong đó, hồ Trung Sơn 147.78/150m (yêu cầu tối thiểu: 150.7m); hồ Bản Vẽ 156.92/155.0m (yêu cầu tối thiểu: 173.0 đến 176.5m); hồ Hủa Na 215.92/215 m (yêu cầu tối thiểu: 220.7m); hồ Bình Điền 67.57/53m (yêu cầu tối thiểu: 66.8 đến 68.9m); hồ Hương Điền 50.48/46 m (yêu cầu tối thiểu: 49.1 đến 50.4m)

Khu vực Đông Nam Bộ

Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày hôm qua, bao gồm: Hồ Thác Mơ 104m3/s; hồ Trị An 330m3/s.

Mực nước các hồ ở xấp xỉ mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/mực nước chết), trong đó hồ Thác Mơ 199.52/198m (yêu cầu tối thiểu: 201.0m); hồ Trị An 53.03/50m (yêu cầu tối thiểu: 50.3m).

Khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ:

Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, tăng nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ A Vương 79m3/s; Hồ Đăkđrink 20 m3/s; Hồ Sông Bung 4: 96m3/s; Hồ Sông Tranh 2: 39 m3/s; hồ Sông Ba Hạ 419m3/s; hồ Sông Hinh 15m3/s.

Mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/mực nước chết). Cụ thể, hồ A Vương 363.63/340 (yêu cầu tối thiểu 361.5 đến 363.7m); hồ Đăkđrink 401.49/375m (yêu cầu tối thiểu: 319.9m đến 393.5m); hồ Sông Bung 4: 218.07/205 m (yêu cầu tối thiểu: 213.5m đến 215.2m); hồ Sông Tranh 2: 159.79/140m (yêu cầu tối thiểu: 159.6m đến 161.2m); hồ Sông Ba Hạ 103.58/101m (yêu cầu tối thiểu: 102.4m đến 103.2m); hồ Sông Hinh 205.10/196m (yêu cầu tối thiểu: 204.3m đến 205.0m)

Khu vực Tây Nguyên

Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, tăng nhẹ so với ngày hôm qua. Cụ thể, hồ Buôn Kuốp 110m3/s; hồ Buôn Tua Srah 87 m3/s; hồ Đại Ninh 16m3/s; hồ Hàm Thuận 93m3/s; hồ Đồng Nai 3: 36m3/s; hồ Ialy 273 m3/s; hồ Pleikrông 244 m3/s; hồ Sê San 4: 106m3/s; Hồ Thượng Kon Tum: 16 m3/s;

Mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/mực nước chết). Cụ thể, hồ Buôn Kuốp 410.01/409m; hồ Buôn Tua Srah 469.82/465 m (yêu cầu tối thiểu: 468.4 m); hồ Đại Ninh 865.14/860m (yêu cầu tối thiểu: 862.4m); hồ Hàm Thuận 582.42/575m (yêu cầu tối thiểu: 580.3m); hồ Đồng Nai 3: 571.75/570 m (yêu cầu tối thiểu: 571.8m); hồ Ialy: 501.92/490 m (yêu cầu tối thiểu: 492.4m); hồ Pleikrông: 548.12/537m (yêu cầu tối thiểu: 547.6m); hồ Sê San 4: 210.94/210m (yêu cầu tối thiểu: 210.3m); hồ Thượng Kon Tum: 1148.11/1138 m (yêu cầu tối thiểu: 1141.6m).

 

Hoàng Phương