Miền núi khó khăn về hạ tầng là vùng đất giàu tiềm năng

Nhờ cách nhìn mới về kinh doanh ở miền núi, nơi đang còn rất khó khăn về giao thông, hạ tầng, nhưng cũng là vùng đất giàu tiềm năng khai thác, cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ đóng gói, hoàn thiện sản phẩm, AUTOAGRI đã trở thành kênh kết nối, đồng hành cùng bà con dân tộc đưa đặc sản vùng miền đi xa.
Đặc sản vùng miền
Người dân xã Chế Là, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang thu hái chè

Khó khăn nhưng giàu tiềm năng đặc sản vùng miền

Để đưa đặc sản vùng miền của bà con các dân tộc đi xa, từ năm 2015 doanh nhân Nguyễn Thị Thành Thực đã dành nhiều tâm huyết và thời lượng cho việc thay đổi những cách làm  truyền thống trước đây để có thể cập nhật được xu hướng của thế giới và có những nghiên cứu và về vấn đề tình hình nông nghiệp và nông sản Việt Nam.

Cách đây 7 năm, khi nông nghiệp của chúng ta chưa được đầu tư nhiều như hiện nay, bà đã xác định 3 vùng cần hỗ trợ phát triển nhiều nhất là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ.

Theo bà, để phát triển trong nông nghiệp đặc sản vùng miền của Việt Nam, cơ hội chúng ta cạnh tranh lớn nhất chính là 3 vùng mà chúng ta vốn cho là các vùng khó khăn về giao thông, hạ tầng. Cũng vì những khó khăn như vậy nên còn rất nhiều tiềm năng. Tiềm năng đầu tiên là ưu việt về thiên nhiên, ví dụ như là chênh lệch nhiệt độ ngày - đêm, những khoáng chất tự nhiên trong các vùng đất đấy; đặc biệt những vùng đất ấy chưa bị ô nhiễm nhiều và bản thân những con người ở những vùng đất ấy còn giữ nhiều kinh nghiệm truyền thống, những kỹ năng khác biệt về thu hái, chế biến món ăn...

Chính những điều ấy tạo nên sự khác biệt. Với kinh nghiệm của mình, doanh nhân Nguyễn Thị Thành Thực nhận thấy giá trị lớn nhất trong chuỗi giá trị chính là giá trị thương hiệu và cái yếu tố cốt lõi để xây dựng nên giá trị thương hiệu chính là tính khác biệt.

Theo xu hướng lớn

Thương mại điện tử là xu hướng rất lớn. Để đáp ứng yêu cầu giao dịch thương mại điện tử, khâu quan trọng nhất là hoàn thiện và đóng gói sản phẩm tùy theo điều kiện.

Thứ nhất là điều kiện vận chuyển hàng hóa; thứ hai là điều kiện bán hàng của điểm bán. Nếu như với các nước phát triển thì khâu giao nhận rất thuận tiện; thứ hai là điểm bán một sản phẩm mà cần bảo quản trong điều kiện nhiệt độ nhất định thì cơ sở bảo quản rất tốt sẽ là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng.

Bà lấy ví dụ, trái vải thiều bán ở những xe bán ngoài chợ hay trong siêu thị để bày bán có gió, nhiệt độ lạnh thì sẽ bị thâm vải rất nhanh. Tuy nhiên cũng là trái vải thiều như vậy, với phương pháp đóng gói như vậy, công ty của bà đóng hàng xuất khẩu đi Trung Quốc đảm bảo được ba ngày ba đêm trong điều kiện bình thường không bị hư hỏng và không bị mất màu; chi phí hư hao của sản phẩm rất thấp.

Một ví dụ khác như sản phẩm cam sành ở Hàm Yên, Tuyên Quang từ tận gốc chuyển đến Hà Nội không xa nhưng có thể chênh lệch đến ba bốn lần giá, bởi vì đặc thù của trái cam đấy có hạt tinh dầu rất to và dễ bị dập dầu thì sẽ bị thối rất nhanh. Vậy thì chúng ta phải đóng như thế nào?

Theo bà, thứ nhất là vấn đề truy xuất nguồn gốc. Chúng ta phải ứng dụng công nghệ thông tin. Nếu không ứng dụng công nghệ thông tin, không ai có thể đi đến tận vùng sâu, vùng xa để xác định cái này của nhà ai hay có đúng xuất xứ ở đó hay không.

Thứ hai là công nghệ bảo quản chế biến sản phẩm sẽ khắc phục được rất nhiều, nhưng hạ tầng chúng ta chưa đầu tư được nhiều.

Nhưng hầu hết nhân lực của chúng ta làm trong lĩnh vực nông nghiệp, nông sản và sản phẩm miền núi, đều là những nhân lực lớn tuổi. Điều cần thay đổi không phải họ không thể hiểu biết về công nghệ thông tin hay chế biến, đóng gói mà cần thay đổi tư duy, nhận thức của nhân lực.

Trong chiến lược của  giai đoạn gần đây, doanh nghiệp của bà sẽ tập trung vào thế hệ trẻ. Hiện tại với Công ty cổ phần công nghệ phần mềm AUTOAGRI của bà đã có những sản phẩm về công nghệ tiện ích vừa phục vụ cho quản lý vừa phục vụ cho truy xuất nguồn gốc, cũng như kết nối thương mại đến các sàn thương mại điện tử. Công ty đã được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ và 100% là sản phẩm của Việt Nam, toàn bộ hạ tầng của Việt Nam và được giám sát bởi các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam.

AUTOAGRI đã ứng dụng thí điểm cho khoảng 16 tỉnh; trong đó có khu vực vùng sâu, vùng xa như huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang đã số hóa tất cả các sản phẩm OCOP. Huyện đã phối Công ty Cổ phần công nghệ phần mềm AUTOAGRI (Hà Nội) xây dựng và cập nhật đầy đủ các thông tin sản phẩm OCOP trên phần mềm AUTOAGRI, đảm bảo cho việc truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa và quản lý vùng nguyên liệu. Đồng thời, xây dựng kế hoạch thực hiện, chủ động phối hợp với các Ban quản trị để kiến nghị phương án sắp xếp, bố trí, cách thức tìm kiếm tại các trang thương mại điện tử một cách dễ dàng, thuận tiện đối với các sản phẩm đặc trưng địa phương. Đến nay, một số sản phẩm OCOP của huyện như: Chè Chế Là, Chè Tuấn Băng, Trà Khổ qua rừng, Mật ong Thảo quả… cũng đã được ngành chuyên môn của huyện quảng bá và tiêu thụ trên sàn giao dịch điện tử AutoAgri.vn

Đối với Tuyên Quang, đã hỗ trợ cho chương trình bò H’mông, giúp cho bà con xóa đói giảm nghèo và đặc biệt số hóa từng con bò.

AUTOAGRI đã vận động thành lập ngân hàng bò cho vay, thường ngày có thể nhìn thấy con bò nào của bà con sinh sản như nào, gặp vấn đề gì, lớn lên như thế nào... Đặc biệt đối với tỉnh Đắk Lắk, công ty đã phối hợp với địa phương tiến hành số hóa 21.000 hộ dân của tỉnh trên nền tảng AUTOAGRI.

Bà, cho biết một số dự án số hóa nông nghiệp của AUTOAGRI đã được triển khai rất thành công ở miền núi, như dự án bảo tồn và phát triển chuỗi giá trị bò H’Mông Việt nam tại các tỉnh Miền núi phía Bắc (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang); Dự án quản lý Ngân hàng Bò vay vốn của Hội nông dân tỉnh Tuyên Quang…

Với Dự án số hóa hợp tác xã heo rừng Tây nguyên của Hội Nông dân tỉnh Đắk Lắk, khi tham gia đề án, các thành viên của HTX đều được tập huấn trang bị các kỹ năng lập trang web và sử dụng phần mềm quản lý quy trình chăn nuôi, đăng ký kinh doanh thương mại điện tử, thực hiện truy xuất nguồn gốc thông qua việc gắn chíp điện tử riêng cho từng vật nuôi.

Đối với dự án số hóa mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói Vải Thiều của tỉnh Bắc Giang, đến nay tỉnh đang duy trì 178 mã số vùng trồng đủ điều kiện phục vụ xuất khẩu; đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị Cục Bảo vệ thực vật cấp thêm 45 mã vùng trồng, nâng tổng số lên 223 mã số vùng trồng vải, với diện tích 17.724 ha.

Hợp tác xã Nông nghiệp số Bình Phước cũng triển khai nền tảng AutoAgri (nông nghiệp thông minh) trong quản lý, giám sát, truy xuất nguồn gốc các sản phẩm nông nghiệp và thí điểm số hóa hơn 1.400 cơ sở chế biến điều, trồng cây ăn trái ở thị xã Phước Long.

Nhờ cách nhìn mới về kinh doanh ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc, nơi đang còn rất khó khăn về giao thông, hạ tầng, nhưng cũng là vùng đất giàu tiềm năng khai thác, cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ đóng gói, hoàn thiện sản phẩm, AUTOAGRI đã trở thành kênh kết nối, đồng hành cùng bà con dân tộc đưa đặc sản vùng miền đi xa.

Phan Thanh Sơn