Mở rộng không gian phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngành Công Thương đã xây dựng các chương trình phát triển, chương trình hành động để thúc đẩy tiềm năng, lợi thế hình thành chuỗi liên kết sản xuất hàng xuất khẩu vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc phát huy được lợi thế kinh tế biên mậu

Theo báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương) về kết quả thực hiện một số chỉ tiêu phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2011-2020 và giai đoạn 2021-2023, tốc độ tăng tổng sản phẩm vùng Trung du miền núi phía Bắc (GRDP) bình quân giai đoạn 2011-2020 tăng 8,2%/năm, đứng thứ nhất cả nước và cao hơn mức tăng bình quân chung của cả nước là 6%/năm.

Giai đoạn 2021-2022, tốc độ tăng tổng sản phẩm của vùng là 8,37%/năm. Đến năm 2021, quy mô nền kinh tế được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp và dịch vụ (Tập trung vào thủy điện và kinh tế cửa khẩu).

thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Ông Bùi Huy Sơn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương) phát biểu tại Hội nghị xúc tiến thương mại và phát triển xuất nhập khẩu vùng Trung du và miền núi phía Bắc do Bộ Công Thương phối hợp tổ chức ngày 12/4 vừa qua tại Lào Cai

Theo đó, cơ cấu giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp khai khoáng giảm dần từ 17,1% năm 2011 xuống còn 5,8% vào năm 2020; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm từ 59,2% năm 2011 lên 70,9% vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân của 14 tỉnh khá đồng đều.

Thương mại nội địa phát triển mạnh, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của cả vùng trong giai đoạn 2011-2020 tăng bình quân 12%/năm, đứng thứ 2 cả nước cùng với vùng Đồng bằng sông Hồng và cao hơn mức tăng bình quân chung của cả nước là 11,2%/năm. Những năm gần đây, giai đoạn 2021-2023 đạt mức tăng bình quân 15,6%/năm, đứng thứ 4 cả nước. Kết cấu hạ tầng thương mại cũng đã được quan tâm đầu tư.

Hoạt động xuất nhập khẩu của vùng tuy còn nhỏ nhưng đã phát huy khai thác được lợi thế kinh tế biên mậu, kinh tế cửa khẩu của các tỉnh trong khu vực. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn 2011-2020 của vùng tăng 42,2%/năm, đứng thứ nhất cả nước và cao hơn mức bình quân chung của các nước là 14,7%/năm. Giai đoạn 2021-2023 đạt mức tăng bình quân 15,4%/năm, đứng thứ 3 cả nước. Cán cân thương mại chuyển từ nhập siêu 545 triệu USD năm 2011 sang xuất siêu gần 11,4 tỷ USD vào năm 2020 và tăng lên 18,1 tỷ USD vào năm 2023.

thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Ông Bùi Huy Sơn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương)

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ông Bùi Huy Sơn cũng thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn tồn tại một số hạn chế, cụ thể quy mô sản xuất công nghiệp của vùng còn nhỏ, liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa các địa phương trong vùng còn rời rạc; hoạt hộng của các Khu công nghiệp kết nối với các cụm liên kết trong sản xuất công nghiệp còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp mũi nhọn; đặc biệt khả năng thu hút đầu tư nước ngoài còn hạn chế, chỉ tập trung vào một số địa phương, tốc độ phát triển giữa các tỉnh trong vùng chưa được đồng đều…

Lý giải về nguyên nhân của những hạn chế này, ông Bùi Huy Sơn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính cho biết, kinh tế của vùng có điểm xuất phát thấp, nội lực còn hạn chế, hơn nữa lại là vùng có nhiều khó khăn; khủng hoảng và biến động kinh tế, chính trị thế giới làm ảnh hưởng đến kinh tế trong nước và vùng; nhiều tỉnh trong vùng là tỉnh sát biên giới vừa là điều kiện để phát triển những có dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như tình hình buôn lậu, gian lận thương mại và các tác động trái chiều của hoạt động kinh tế cửa khẩu; kết cấu hạ tầng thương mại chậm phát triển,…

Mở rộng không gian phát triển ngành Công Thương của vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Tuy nhiên, còn nhiều cơ hội để phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong thời gian tới, cụ thể, tại Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã tạo ra nền tảng quan trọng, vững chắc và lâu dài cho sự phát triển đồng bộ của vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Sự phát triển của vùng Trung du và miền núi Bắc bộ không thể tách rời sự phát triển của quốc gia, chịu sự chi phối và có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với phát triển quốc gia và gắn kết với sự phát triển của các vùng liên quan, đặc biệt là vùng Thủ đô và vùng Đồng bằng sông Hồng để mở rộng không gian phát triển ngành Công Thương của Vùng trên cơ sở tăng cường mối liên kết nội Vùng và liên Vùng, đồng thời khai thác hiệu quả lợi ích từ các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia để thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động liên kết sản xuất và xuất khẩu.

Đồng thời, hệ thống quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, vùng, tỉnh đã và đang được các cấp có thẩm quyền khẩn trương hoàn thiện và ban hành góp phần bảo đảm tính thống nhất về nguyên tắc sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực thực hiện đồng bộ giữa quy hoạch với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm kết hợp quản lý liên ngành, liên vùng và liên tỉnh.

"Đây là cơ hội để vùng Trung du và miền núi phía Bắc khai thác có hiệu quả tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương trong vùng gắn với 4 hành lang kinh tế chiến lược (Hành lang kinh tế Bắc - Nam; Hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hành lang kinh tế ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình) và 3 cực tăng trưởng (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh)." - Ông Bùi Huy Sơn nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, các cơ sở hạ tầng quan trọng trong khu vực thời gian vừa qua đã được Chính phủ và các tỉnh quan tâm đầu tư cải thiện đáng kể. Xu hướng chuyển dịch sản xuất và đa dạng hoá nguồn cung tránh rủi ro khi quá phụ thuộc vào một hoặc một vài nước nhất định, đây là cơ hội để vùng Trung du và miền núi phía Bắc tận dụng, khai thác để thâm nhập và mở rộng thị trường.

thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Còn nhiều cơ hội để phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong thời gian tới

Để thúc đẩy tiềm năng, lợi thế hình thành chuỗi liên kết sản xuất hàng xuất khẩu vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong thời gian tới, ông Bùi Huy Sơn đề xuất một số giải pháp, cụ thể:

Thứ nhất, về thể chế, chính sách, cần tập trung cụ thể hoá các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đủ mạnh và khả thi, tổ chức sắp xếp, phân bố không gian, liên kết và tích hợp trong quy hoạch Vùng ở tất cả các cấp độ để khai thác có hiệu quả tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương trong vùng nhằm nâng cao hiệu quả liên kết nội vùng và liên vùng.

Thứ hai, về thực thi, cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, cơ cấu và sắp xếp lại không gian phát triển công nghiệp trong vùng và địa phương bám sát quy hoạch đảm bảo tính chuyên môn hóa cao, phát huy tốt nhất các lợi thế của vùng và địa phương. Tăng cường liên kết nội vùng và liên vùng nhằm phát huy các lợi thế về tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là các khoáng sản chiến lược, có giá trị cao như đất hiếm nhằm phục vụ ngành công nghiệp chip bán dẫn.

Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực phục vụ phát triển các ngành công nghiệp và thương mại mà Vùng có thế mạnh.

Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư gắn với lợi thế nổi trội của vùng để nâng cao hiệu quả thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài. Trong đó, tập trung phát triển mạnh các ngành tài nguyên khoáng sản, công nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất phân bón và hóa chất; phát triển thị trường nguyên phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ.

Tập trung thu hút đầu tư phát triển mạng lưới Logistics, các trung tâm trung chuyển và kho vận hiện đại, thông minh, khai thác triệt để lợi thế về vận tải đa phương thức trong vùng để phát huy tối đa lợi thế các địa phương trong vùng giao thoa, chuyển tiếp giữa Vùng Thủ đô, vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng trung du, Miền núi phía Bắc nhằm khơi thông nguồn hàng, tạo luồng lưu chuyển hàng hóa thông thoáng, thúc đẩy giao thương nội vùng, liên vùng và quốc tế.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương theo hướng cụm liên kết ngành công nghiệp, tăng cường các hoạt động khuyến công, tạo động lực mới thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Phát triển thương mại nội địa theo hướng hiện đại, gắn với xây dựng thương hiệu bền vững, tập trung hoàn thiện hạ tầng thương mại đồng bộ, hiện đại, khai thác tiềm năng phát triển thương mại điện tử, trung tâm logistics quy mô vùng không chỉ phục vụ cho phát triển thương mại nội địa mà còn tận dụng tối đa lợi thế và cơ hội phát triển kinh tế biên mậu.

Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu kinh tế cửa khẩu để phát huy tối đa vai trò quan hệ với nước ngoài và với các địa phương khác trong vùng và cả nước.

thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghiệp, thương mại có lợi thế của vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Để triển khai có hiệu quả các nhóm giải pháp nêu trên, ông Bùi Huy Sơn kiến nghị các địa phương trong vùng phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương để triển khai, thực hiện sớm quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc, quy hoạch tỉnh phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia, các quy hoạch ngành trong lĩnh vực Công Thương (Quy hoạch điện lực, Quy hoạch hạ tầng xăng dầu, khí đốt, Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản và Quy hoạch năng lượng quốc gia) để sẵn sàng triển khai các dự án công nghiệp, thương mại trọng điểm, có tính chất liên kết nội vùng và liên vùng.

Trên cơ sở đó, xác định các kế hoạch thực hiện có tính khả thi cao và tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả, giám sát, đánh giá, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế từng thời kỳ.

Đồng thời, tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương trong công tác xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghiệp, thương mại có lợi thế của vùng. Xây dựng các trung tâm đào tạo chất lượng cao trên cơ sở phát huy hệ thống các trường đại học và cao đẳng nghề trong lĩnh vực Công Thương trên địa bàn vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định và nhấn mạnh, liên kết phát triển vùng là một nhiệm vụ trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025;

Ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về định hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đây là một trong những Nghị quyết về phát triển Vùng được Bộ Chính trị ban hành vào thời điểm đầu tiên của giai đoạn phát triển mới, có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy mục tiêu tăng cường liên kết vùng để khắc phục không gian phát triển không bị chia cắt theo địa giới hành chính, góp phần phát huy đầy đủ tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong Vùng, trong đó vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ được xác định là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của cả nước, là địa bàn giàu tiềm năng, có lợi thế về kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch và kinh tế biên mậu.

Huyền My