Nhiều dư địa, tiềm năng phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã

Thời gian qua, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều chuyển biến tích cực về chất và lượng; cơ bản khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của một trong những thành phần kinh tế nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.

Nhiều mô hình hoạt động đa dạng, hiệu quả

Theo Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về kinh tế tập thể (KTTT) và tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 diễn ra mới đây, trong 20 năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực KTTT đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Nổi bật nhất là sự thay đổi mô hình HTX kém hiệu quả sang mô hình HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Khu vực KTTT với nhiều loại hình tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng, trong đó nòng cốt là HTX là một trong những thành phần kinh tế quan trọng, đã khắc phục được một phần tình trạng yếu kém kéo dài, từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường, bước đầu khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế của đất nước.

Việc chuyển đổi, tổ chức lại các hợp tác xã theo quy định của Luật HTX cơ bản được hoàn thành, nhiều HTX được thành lập. Các HTX cũ đang hoạt động đã cơ bản chuyển đổi theo Luật HTX năm 2003 và Luật HTX năm 2012. Đến cuối năm 2020, chỉ còn 615 HTX chưa đăng ký và tổ chức lại, chiếm 2,21% tổng số HTX cả nước.

Bên cạnh việc chuyển đổi, tổ chức lại các HTX cũ, công tác vận động, hướng dẫn thành lập các HTX mới cũng có kết quả tốt. Số lượng HTX tăng, hoạt động đa dạng trên các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Đến 31/12/2021, cả nước có 27.342 HTX, tăng 16.420 HTX (gấp 2,5 lần) so với năm 2001; khu vực HTX thu hút gần 6 triệu thành viên và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động. Trong tổng số 27.342 HTX, HTX nông nghiệp chiếm 67,03%; HTX thương mại, dịch vụ chiếm 7,49%; HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 9,05%; HTX giao thông vận tải chiếm 6,7%; Quỹ tín dụng nhân dân chiếm 4,32%; HTX xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 3,23%, HTX môi trường chiếm 1,75% và HTX khác chiếm 0,43%.

Trong giai đoạn 2001-2021, số lượng HTX thành lập mới là 37.810 HTX, giải thể khoảng 21.390 HTX. Trong đó, giai đoạn 2001-2011 thành lập mới 11.640 HTX, giải thể 6.080 HTX; giai đoạn 2012-2021 thành lập mới 26.170 HTX, giải thể 15.310 HTX.

Đáng chú ý, từ khi có Luật HTX năm 2012, số lượng HTX thành lập mới tăng nhanh qua các năm. Nếu như giai đoạn 2001-2011 trung bình chỉ có 1.164 HTX thành lập mới mỗi năm thì đến giai đoạn 2012-2021 trung bình có 2.617 HTX thành lập mới mỗi năm (tăng gấp 2,24 lần).

Số HTX thành lập mới chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, các tỉnh Nam bộ, Bắc Trung bộ và một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Đồng thời xuất hiện thêm nhiều loại hình, mô hình KTTT, HTX hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, trật tự xã hội. Tính đến 31/12/2021, số lao động làm việc trong HTX là 1.078.000 người, tăng 549.693 người (gấp 2 lần) so với thời điểm 31/12/2001.

Về tổ hợp tác (THT), ước đến cuối năm 2021, cả nước có 69.294 THT (34.871 THT trong lĩnh vực nông nghiệp và 34.423 THT phi nông nghiệp), giảm 24.506 THT (khoảng 26%) so với cuối năm 2001, thu hút 1.096.700 thành viên tham gia (bình quân một THT có khoảng 15 thành viên), giảm khoảng 9% so với năm 2001. Doanh thu bình quân của 1 THT là 294,85 triệu đồng/năm, tăng 6,5 lần so với năm 2001. Lãi bình quân của 1 THT là 49 triệu đồng/năm, tăng 6,8 lần so với năm 2001.

Đối với mô hình liên hiệp HTX, đến năm 2021, cả nước có 103 LH HTX (79 LH HTX nông nghiệp và 24 LH HTX phi nông nghiệp), tăng gấp 9,3 lần so với năm 2001. Số LH HTX tăng chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (tăng 77 LH HTX). Các LH HTX thành lập chủ yếu ở các vùng: Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long…

Các LH HTX thu hút 668 HTX thành viên, tạo việc làm cho 17.928 lao động với thu nhập bình quân khoảng 60-80 triệu đồng/năm. Doanh thu bình quân 01 LH HTX là 1,5 tỷ đồng/năm và lãi bình quân 01 LH HTX khoảng 128 triệu đồng/năm.

Phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền, lĩnh vực kinh tế

Bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực KTTT, HTX vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước, của người dân về KTTT, nhất là HTX kiểu mới được nâng lên nhưng vẫn còn tâm lý e dè, ngại tham gia HTX và kinh tế hợp tác. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTT còn thấp so với các khu vực kinh tế khác, tỷ lệ đóng góp vào GDP chưa đáp ứng yêu cầu. Phần lớn tổ chức KTTT, HTX có quy mô nhỏ, phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền, giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Quản lý nhà nước về KTTT, HTX còn nhiều bất cập, không thống nhất, thiếu chặt chẽ, phân tán, chưa hiệu quả, đặc biệt là ở các cấp địa phương (còn nhiều đầu mối các cơ quan có chức năng về quản lý KTTT, HTX, chưa có bộ máy quản lý nhà nước chuyên trách về KTTT, HTX).

Công tác tổng kết lý luận và tổng kết thực tiễn thi hành Luật HTX chưa kịp thời; nội dung phát triển KTTT chưa được nghiên cứu, giảng dạy sâu rộng trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề như yêu cầu của Nghị quyết.

Hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chậm; ở một số nơi công tác quản lý nhà nước còn buông lỏng hoặc can thiệp quá sâu, không đúng đối với tổ chức, hoạt động và nhân sự của HTX. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật chưa thường xuyên.

Đánh giá về hiệu quả và đóng góp của KTTT trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, thiếu sót trong tính toán về đóng góp của các tổ chức kinh tế hợp tác (hiện nay mới chỉ tính được phần đóng góp của HTX trong GDP, chưa tính đóng góp của tổ hợp tác, kinh tế thành viên và hộ gia đình) dẫn đến hạ thấp vai trò, vị trí của thành phần KTTT trong nền kinh tế nước ta.

Bối cảnh phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới

Thông báo số 67/TB-VPCP ngày 04/3/2022 về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị nhận định: Sau hơn 35 năm đổi mới, kinh tế nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, tăng trưởng kinh tế thuộc nhóm cao trong khu vực và trên thế giới, vị thế đất nước ta được nâng lên. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước và sự đoàn kết của Nhân dân, đặc biệt là đại đoàn kết của toàn dân tộc đã làm nên sức mạnh nội sinh của đất nước, trong đó khu vực KTTT, HTX đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định kinh tế nhà nước cùng với KTTT ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT, HTX gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực.

Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với các cam kết mở thị trường về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư theo các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những cơ hội và thách thức đối với khu vực KTTT, HTX.

Bên cạnh đó, cơ hội, dư địa và tiềm năng phát triển của khu vực KTTT, HTX còn rất lớn, đặc biệt là HTX nông nghiệp. Đội ngũ lao động đông, có kinh nghiệm, cùng với hạ tầng cơ sở ở khu vực nông thôn được đầu tư của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới sẽ là nền tảng thúc đẩy, áp dụng công nghệ, phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại. Với thị trường trong nước quy mô gần 100 triệu dân, thu nhập ngày càng tăng và thị trường quốc tế tiếp tục mở rộng với 15 FTA được ký kết và đàm phán, là điều kiện rất thuận lợi thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng Việt Nam.

Tuy nhiên, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ có những cạnh tranh hết sức gay gắt, quyết liệt nếu chúng ta không dự báo kịp thời và chuẩn bị nguồn lực sẽ diễn biến nhanh và gây ra hậu quả rất nặng nề.

Định hướng, giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển KTTT, HTX

Đối với mục tiêu, định hướng, giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới, Kết luận của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ cần tập trung thực hiện một số nhóm nhiệm vụ, giải pháp.

Một là, nhận thức sâu sắc chủ trương, định hướng, vai trò, vị trí của KTTT là một thành phần kinh tế quan trọng, không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, đa sở hữu, định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII và các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển KTTT, HTX. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách phù hợp với tình hình mới và thực tiễn Việt Nam.

Hai là tiếp tục hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về KTTT, HTX tập trung, thống nhất, xuyên suốt trong chỉ đạo, điều hành từ trung ương đến địa phương.

Ba là, nghiên cứu, hỗ trợ ứng dụng sáng tạo khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức cho phát triển KTTT, HTX.

Bốn là huy động mọi nguồn lực cho phát triển KTTT, HTX, đẩy mạnh hợp tác công - tư.

Năm là xây dựng mô hình quản trị KTTT, HTX tiên tiến, kết hợp với mô hình truyền thống phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể của nước ta, có kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển.

Sáu là tạo cạnh tranh lành mạnh, gắn với mở rộng thị trường và phát triển thương hiệu, sản phẩm.

Bảy là tăng cường liên doanh, liên kết, xây dựng thương hiệu các sản phẩm theo chuỗi và theo thế mạnh của từng khu vực, vùng miền; quy hoạch vùng nguyên liệu hợp lý theo điều kiện từng địa phương, từng sản phẩm và quy mô, thị trường.

Tám là nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ và các chủ thể tham gia KTTT, HTX, chuẩn hóa các chức danh quản lý trong HTX (giám đốc, kế toán, kiểm soát).

Thanh Hà