Quy định của EU nhằm giảm chất thải dệt may: Thích ứng để phát triển

Mục tiêu và quy định mới của EU nhằm giảm chất thải dệt may dự báo sẽ mang đến nhiều thách thức cho ngành dệt may Việt Nam tại thị trường này.

Theo báo cáo mới đây của Trung tâm Xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển (CBI), hàng năm người dân ở các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) thải bỏ 5,8 triệu tấn hàng dệt may, khoảng 11,3 kg/người. Hiện nay, EU vẫn thực hiện đốt hoặc chôn lấp phần lớn chất thải này hoặc xuất khẩu dưới dạng quần áo cũ.

Với mục tiêu từ năm 2025, tất cả các nước thuộc EU phải thu gom riêng chất thải dệt may, EU đã phát động chiến dịch Thiết lập lại xu hướng (Reset the Trend campaign) nhằm giải quyết tất cả các tác nhân có thể gây ra chất thải ngày càng tăng trong ngành dệt may, bao gồm nhà thiết kế, thương hiệu, nhà bán lẻ, người tiêu dùng cuối cùng, nhà sản xuất hàng may mặc trong và ngoài Châu Âu.

dệt may Việt Nam
Chiến dịch Thiết lập lại xu hướng (Reset the Trend campaign) của EU nêu bật một số biện pháp mới để giảm chất thải dệt may: từ yêu cầu thiết kế đến tiêu chí chống quảng cáo tẩy xanh (greenwash).

Nhấn mạnh trách nhiệm của nhà sản xuất hàng dệt may

Mục tiêu của chiến dịch Reset the Trend campaign là đến năm 2030, tất cả các sản phẩm dệt may trên thị trường EU phải: bền và có thể tái chế; làm bằng sợi tái chế càng nhiều càng tốt; không có chất độc hại; được sản xuất với sự quan tâm đến các quyền xã hội và môi trường.

Tầm nhìn của chiến dịch nhằm giúp người tiêu dùng được hưởng lợi lâu hơn từ hàng dệt may chất lượng cao; thời trang nhanh sẽ bị lỗi thời; các dịch vụ sửa chữa và tái sử dụng có lợi về mặt kinh tế sẽ được phổ biến rộng rãi.

Tầm nhìn cũng nêu rõ vào năm 2030, các nhà sản xuất hàng may mặc phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về sản phẩm và chất thải của mình.

Một trong số các biện pháp mới được đưa ra gồm các đề xuất đưa sản phẩm bền vững trở thành tiêu chuẩn. Theo đó, các công ty sản xuất hàng dệt may phải đáp ứng các yêu cầu mới về vật liệu tái chế tối thiểu trong sản phẩm. Bên cạnh đó là các yêu cầu ghi nhãn mới và "Hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số" dựa trên các yếu tố môi trường quan trọng, thông báo cho người tiêu dùng cuối về tính bền vững của sản phẩm...             

Cùng với chiến dịch Reset the Trend campaign, trong năm nay dự kiến EU sẽ xem xét lại luật cơ bản về chất thải của Châu Âu, trong đó tập trung vào trách nhiệm mở rộng của các nhà sản xuất (EPR) sau khi bán hàng dệt may của họ tại thị trường EU. Tức là các doanh nghiệp sản xuất dệt may phải đảm bảo toàn bộ vòng đời của sản phẩm dệt may và hỗ trợ sự quản lý bền vững rác thải dệt may khắp châu Âu.

EU tin rằng EPR là một công cụ hiệu quả, khuyến khích các công ty dệt may sản xuất các mặt hàng có tuổi thọ cao hơn và dễ tái chế hơn.

EU cũng đang làm việc về các biện pháp pháp lý mới nhằm đảm bảo quyền sửa chữa cho người tiêu dùng cuối châu Âu; giảm vi hạt nhựa trong môi trường; đưa ra các tiêu chí để chấm dứt hành vi tẩy xanh; đảm bảo các công ty thực hiện các bước trong quá trình thẩm định bền vững của doanh nghiệp. Đây là một phần trong Chiến lược dệt may tuần hoàn và bền vững của EU tới năm 2030.

Khuyến nghị cho các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may vào EU

Tất cả các quy định mới của EU được dự báo sẽ ảnh hưởng đến cách các nhà sản xuất hàng dệt may kinh doanh ở châu Âu trong tương lai. Phần lớn chất thải dệt may hiện nay chưa thể tái chế thành quần áo mới vì nguyên liệu kém chất lượng hoặc bị pha trộn và tái chế hóa chất có tác động đến môi trường.

Với riêng ngành dệt may Việt Nam, không thể phủ nhận việc tận dụng được các ưu thế của Hiệp định EVFTA giúp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tăng trưởng tốt vào EU. Năm 2022, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt 4,46 tỷ USD, tăng 34,7% so với năm 2021.

Mặc dù vậy, những quy định ngày càng khắt khe, chặt chẽ của EU được cho là tăng thêm áp lực cho các doanh nghiệp trong bối cảnh đơn hàng xuất khẩu vào thị trường lớn này giảm sâu trong hơn nửa năm qua.

xuất khẩu dệt may vào EU

Tuy nhiên, EU là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất với mức tiêu thụ lên tới hơn 264 tỷ USD năm 2022, chiếm khoảng 33% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của thế giới. Đây cũng vẫn là một trong những thị trường trọng điểm của hàng dệt may Việt Nam.

Mặt khác, trong xu hướng trung dài hạn, dự báo EU sẽ còn ban hành các chính sách khắt khe về tiêu chuẩn xanh, bền vững.

Vì thế, giải pháp hiệu quả là các doanh nghiệp và toàn ngành dệt may Việt Nam phải nhanh chóng thích ứng, có chiến lược bài bản trong chuyển đổi sản xuất xanh để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh tại thị trường này.

Xem thêm: "Ngành dệt may: Chuyển đổi xanh hay là mất đơn hàng?" trên Tạp chí Công Thương tại đây.

Trên thực tế, thời gian qua ngành dệt may Việt Nam đã có những bước chuẩn bị từ khá sớm cho sự chuyển đổi xanh, phát triển bền vững. Nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư, triển khai những dự án liên quan đến giảm rác thải, tái sử dụng nguồn nước, truy xuất nguồn gốc nguyên vật liệu dệt may….

Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này còn gặp không ít khó khăn. Trong đó, nguồn cung nguyên phụ liệu cho ngành như bông, xơ, vải…  vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, khó kiểm soát được chất lượng và tính bền vững của chuỗi cung ứng. Khâu dệt nhuộm chưa hình thành được các khu công nghiệp dệt may lớn có hệ thống xử lý nước thải tập trung và cũng còn chưa được nhiều địa phương tiếp nhận, phê duyệt triển khai do lo ngại ảnh hưởng đến môi trường.

Ngành còn thiếu nhân lực chất lượng cao phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ 4.0; nhân lực đáp ứng vận hành các khâu đòi hỏi kỹ thuật cao, hiện đại như: dệt, nhuộm và thiết kế thời trang. Hơn nữa, quá trình chuyển đổi sản xuất đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được…

Theo các chuyên gia, giải pháp khuyến nghị cho các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may nói chung vào EU là phát triển các sản phẩm có tuổi thọ cao hơn và dễ tái chế. Trong đó chú trọng sử dụng các loại sợi và vải chất lượng cao hơn, tốt nhất là bằng vật liệu tái chế; thử nghiệm, áp dụng những cách sản xuất mới, tập trung vào những cách dễ dàng để tân trang, tháo dỡ hoặc tái chế quần áo.

Một giải pháp quan trọng khác là các nhà sản xuất nên tranh thủ, thu hút sự tham gia của người mua hàng, nhà nhập khẩu vào quá trình này vì liên quan đến việc sử dụng các vật liệu mới, hiện đại và phương pháp sản xuất tương đối tốn kém, đòi hỏi sự đầu tư lớn. Việc phối hợp với nhãn hàng để thực hiện thiết kế bền vững, thiết kế sinh thái; liên kết ngành, liên kết sản xuất để thiết lập các mô hình tuần hoàn quy mô lớn… sẽ giúp các doanh nghiệp dần thích ứng được với những quy định mới của EU.

Việt Hằng