Xu hướng mới của phòng vệ thương mại khi thực thi FTAs, nhìn từ vụ việc Mê-hi-cô điều tra thép mạ Việt Nam

Ngày 13/12, Tạp chí Công Thương phối hợp với Cục Phòng vệ Thương mại, Bộ Công Thương tổ chức Tọa đàm trực tuyến “Rủi ro phòng vệ thương mại khi tham gia các FTA - Nhìn từ vụ việc Mexico điều tra chống bán phá giá với thép mạ nhập khẩu từ Việt Nam”.

Tham gia Tọa đàm có 3 vị khách mời, gồm Bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương); ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam; và TS. Hoàng Ngọc Thuận, Trưởng Ban Quản lý đào tạo các Chương trình tiên tiến và Chất lượng cao, Phòng Quản lý Đào tạo, Trường Đại học Ngoại thương.

Tọa đàm được tổ chức trong bối cảnh Mê-hi-cô khởi xướng điều tra chống bán phá giá với thép mạ nhập khẩu từ Việt Nam từ tháng 10 năm 2021 Đây là vụ kiện phòng vệ thương mại đầu tiên của Mê-hi-cô nhằm vào hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; cũng là vụ việc phòng vệ thương mại đầu tiên một nước thành viên Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) điều tra Việt Nam sau khi Hiệp định này có hiệu lực, với quãng thời gian điều tra khá dài, khoảng 10 tháng (tương đương 210 ngày), có thể gia hạn thêm theo quy định của Mê-hi-cô.

Biên tập viên Nguyễn Phương Thảo
Biên tập viên Nguyễn Phương Thảo

Theo đánh giá của các chuyên gia, việc tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thép của Việt Nam khiến nhiều quốc gia chú ý và điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Trước đó, ngành thép Việt Nam đã bị nhiều thị trường khởi xướng kiện phòng vệ thương mại. Những vụ kiện này hầu hết đến từ các thị trường trụ cột trong xuất khẩu thép của Việt Nam như Mỹ, EU, một số nước trong khu vực ASEAN và thậm chí cả Liên minh Kinh tế Á - Âu…  Đặc biệt trong khoảng 2 năm trở lại đây, thép trên thị trường quốc tế thường xuyên là đối tượng của các vụ việc điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với mức thuế suất áp dụng rất cao.

Cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, các biện pháp phòng vệ thương mại cũng ngày càng được các nước sử dụng nhiều hơn. Nhìn rộng ra, trong bối cảnh nhiều FTA Việt Nam tham gia và ký kết có hiệu lực, rủi ro bị điều tra phòng vệ thương mại cũng gia tăng theo.

Sẵn sàng cho "cuộc chơi"

Ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam thông tin về tình hình xuất khẩu thép sang Mê-hi-cô và tâm thế của hiệp hội, doanh nghiệp đối với cuộc điều tra này. Theo ông, từ khi CPTPP có hiệu lực từ 14/1/2019, kim ngạch xuất khẩu nói chung của Việt Nam sang thị trường Mê-hi-cô tăng trưởng mạnh mẽ, trong 10 tháng đầu năm đạt 2,5 tỷ USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với sản phẩm thép, trong 3 năm gần đây, đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc. 10 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thép sang Mê-hi-cô đã vượt con số 700 nghìn tấn, với giá trị gần 800 triệu USD. Số liệu từ Hiệp hội Thép cho thấy, xuất khẩu thép của Việt nam sang thị trường này chiếm 6% về lượng, 8% về giá trị trong 10 tháng đầu năm 2021, tăng gấp đôi so với năm 2020, lần lượt là 3% và 4%.

 

Khách mời, ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam
Khách mời, ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam

 

Bên cạnh đó, Mê-hi-cô là thành viên của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) gồm  Mỹ, Canada và Mê-hi-cô, do đó, thông qua thị trường Mê-hi-cô, không gian xuất khẩu sản phẩm thép của nước ta được mở rộng rất nhiều. Điều đó, cho thấy, Mê-hi-cô là điểm đến, là một thị trường rất tiềm năng cho xuất khẩu thép Việt Nam.

Và cũng vì thế, khi chúng ta thâm nhập sâu vào thị trường này cũng như các thị trường FTAs, việc đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại là điều dễ hiểu, và chúng ta đã sẵn sàng cuộc chơi này, trong đó có khả năng thép Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá, ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu sang thị trường này, ảnh hưởng đến hiệu quả, công ăn việc làm của doanh nghiệp xuất khẩu thép.

Hiệp hội Thép đã phối hợp cùng Cục phòng vệ Thương mại, Bộ Công Thương hướng dẫn cho doanh nghiệp chuẩn bị số liệu, sổ sách, tài liệu để trả lời, cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu của cơ quan điều tra Mê-hi-cô. Thuận lợi cơ bản là hiệp hội và doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ hiệu quả của Cục Phòng vệ Thương mại; và trong nhiều năm qua, doanh nghiệp thép đã tích lũy được kinh nghiệm trong xử lý vụ việc phòng vệ thương mại.

Những cuộc điều tra phòng vệ thương mại có điểm tiêu cực, như khả năng áp thuế cao, hạn chế khả năng xuất khẩu, và có tính “lây lan”, ví dụ như khi Mê-hi-cô điều tra có thể “gợi ý” các thị trường khác cũng điều tra mặt hàng thép mạ nước ta. Song cũng có điểm tích cực, khi doanh nghiệp xuất khẩu thép chấp nhận "cuộc chơi" trong xu hướng sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng phổ biến, họ có có tinh thần chuẩn bị tốt hơn, có giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện công tác quản trị, thiết lập các chuỗi giá trị của mình để mở rộng không gian xuất khẩu nhằm phân tán rủi ro ở một vài thị trường. Đặc biệt, sự hỗ trợ của Cục Phòng vệ Thương mại rất hiệu quả.

Hiệp hội cũng khuyến cáo các doanh nghiệp mở rộng chuỗi giá trị, chú trọng sử dụng nguyên liệu trong nước, thực hiện đạo đức kinh doanh, công khai, minh bạch trong quản trị để hạn chế thấp nhất những cái cớ dẫn đến các cuộc điều tra.

5 trụ cột hỗ trợ doanh nghiệp

Đánh giá mức độ rủi ro, khả năng ứng phó của doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Bộ Công Thương, bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) chia sẻ, khi Mê-hi-cô khởi xướng điều tra cũng không quá bất ngờ, vì Hiệp hội thép và doanh nghiệp xuất khẩu thép đã được cảnh báo trước đó hơn 1 năm. Sự cảnh báo dựa trên 2 dấu hiệu, xuất khẩu thép Việt Nam sang Mê-hi-cô tăng nhanh từ khi CPTPP có hiệu lực; và doanh nghiệp thép Mê-hi-cô kiến nghị lên Chính phủ, rằng thép Việt Nam có thể gây ảnh hưởng đến ngành sản xuất thép của Mê-hi-cô.

Khách mời, bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương);
Khách mời, bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương

 

Khi Mê-hi-cô khởi xướng điều tra, Bộ Công Thương đã tổ chức cuộc họp với Hiệp hội và doanh nghiệp thép để thông tin, phổ biến các quy định của Mê-hi-cô trong vụ kiện chống bán phá giá. Nhìn chung, pháp luật của nước này về chống bán phá giá cơ bản tuân thủ với quy định trong WTO. Tuy nhiên sẽ có những điểm thuận và không thuận lợi trong vụ việc này.

Về điểm không thuận lợi, gây khó khăn nhất cho doanh nghiệp Việt Nam là rào cản ngôn ngữ. Trong bản thông tin họ gửi đi, và bản trả lời câu hỏi của doanh nghiệp Việt Nam họ yêu cầu dùng tiếng Tây Ban Nha, và phải hợp pháp hóa bởi lãnh sự. Trong bối cảnh Covid-19, lãnh sự quán Mê-hi-cô tại TP. Hồ Chí Minh đóng cửa. Bộ Công Thương đã liên hệ với Bộ Kinh tế nước này đề nghị hỗ trợ để doanh nghiệp nước ta tuân thủ tốt nhất yêu cầu điều tra của Mê-hi-cô. Cuối cùng, Bộ Kinh tế Mê-hi-cô đã gia hạn thời gian tối đa, và đến nay doanh nghiệp nước ta đã hoàn thành việc cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra Mê-hi-cô đúng thời hạn.

Về thuận lợi, đây là vụ kiện thứ 19 của các nước đối với thép mạ Việt Nam, nên các doanh nghiệp đã làm quen với quy trình của một vụ kiện. Ngành thép luôn chủ động thu thập thông tin và chủ động hợp tác với cơ quan điều tra. Điều may mắn trong quá trình đàm phán gia nhập CPTPP, chúng ta đề nghị và được Mê-hi-cô chấp nhận nước ta là nền kinh tế thị trường. Vì vậy, khi điều tra, họ sẽ chấp thuận sử dụng các dữ liệu về sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam, chứ không sử dụng dữ liệu thay thế -điều rất bất lợi cho doanh nghiệp nước ta trong các vụ kiện mà nước kiện chưa công nhận nước ta là nền kinh tế thị trường.

Với những điểm khó khăn và thuận lợi trên, có lý do để hy vọng, trong trường hợp Mê-hi-cô áp thuế chống bán phá giá, thì mức thuế sẽ không cao tới mức cản trở hoạt động xuất khẩu thép Việt Nam sang thị trường này.

Nhìn lại các vụ việc trong 20 năm qua, chỉ có 2 nước áp dụng điều tra phòng vệ thương mại không có FTA với Việt Nam là Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ. Phòng vệ thương mại đã trở thành xu hướng và chiến lược song hành với mở cửa hội nhập của mỗi quốc gia. Vì vậy, chiến lược của chúng ta là, thứ nhất, coi phòng vệ thương mại như là một điều tất yếu cùng với quá trình hội nhập; thứ hai, khi bị điều tra, các hiệp hội, doanh nghiệp bình tĩnh, ứng phó hiệu quả, để sao cho nếu nước ngoài áp thuế cũng không cản trở quá nhiều đến tăng trưởng xuất khẩu. Đây cũng là hướng ưu tiên để Bộ Công Thương thiết kế những nhiệm vụ của mình để hỗ trợ doanh nghiệp.

Do đó, doanh nghiệp cần chủ động thu thập thông tin, trước hết từ các nhà nhập khẩu về động thái của doanh nghiệp nước sở tại, khi có doanh nghiệp phàn nàn về khó khăn của ngành sản xuất trong nước, hoặc phàn nàn về hàng Việt Nam giá rẻ, chiếm lĩnh thị phần cao… Phải coi đây là tín hiệu khởi đầu có thể dẫn đến cuộc điều tra. Sau đó, doanh nghiệp cần thông tin đến hiệp hội, đến Cục phòng vệ Thương mại, thì Bộ Công Thương thông qua hệ thống thương vụ sẽ có nghiên cứu cụ thể hơn về tình hình sản xuất ở nước đó bị thu hẹp ra sao, người lao động bị ảnh hưởng thế nào, để đưa ra nhận định rõ ràng hơn về khả năng dẫn đến cuộc điều tra.

Hiện nay Bộ Công Thương đang duy trì hệ thống cảnh báo sớm các vụ việc phòng vệ thương mại. Khi nhận được thông tin cảnh báo tương đối rõ ràng, Cục Phòng vệ Thương mại sẽ liên hệ với hiệp hội ngành hàng, với doanh nghiệp xuất khẩu lớn, để trao đổi thông tin và thảo luận chiến lược ứng phó.

Để hạn chế nguy cơ phòng vệ thương mại, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, duy trì hệ thống sổ sách, kế toán minh bạch. Vì trong các vụ kiện, thường họ cho doanh nghiệp chuẩn bị 30 ngày trả lời các câu hỏi, nếu ta không có thống sổ sách, kế toán minh bạch, rất khó có thể hoàn thiện đúng thời hạn.

Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp chủ động ứng phó với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại, chủ động sử dụng công cụ phòng vệ thương mại bảo vệ sản xuất trong nước, Bộ Công Thương đề ra 5 trụ cột chính trong nhiệm vụ của mình.

Một là, hoàn thiện khung khổ pháp lý để doanh nghiệp có thể sử dụng công cụ phòng vệ dễ dàng hơn trong bảo vệ sản xuất trong nước.

Hai là, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác phòng vệ thương mại ở các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Ba là, tăng cường đào tạo cho các ngành hàng, với từng thị trường cụ thể

Bốn là, tăng cường năng lực cho các trường đại học, viện nghiên cứu - nơi đào tạo đội ngũ luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý.

Năm là, tăng cường đối thoại với các đối tác kinh tế, thương mại lớn của Việt Nam, thường xuyên sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại; cũng như những đối tác mà Việt Nam nhập khẩu nhiều, nhằm tăng cường vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực phòng vệ thương mại.

Doanh nghiệp cần chuẩn bị nguồn lực

TS. Hoàng Ngọc Thuận – Đại học Ngoại Thương, đánh giá về năng lực pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam cùng những khuyến cáo cụ thể. TS. Hoàng Ngọc Thuận cho biết, phòng vệ thương mại ngày càng được các nước thành viên WTO và thành viện của các FTAs sử dụng nhiều. Thép thuộc nhóm sản phẩm bị nhiều nước trên thế giới điều tra phòng vệ thương mại, chiếm khoảng 40% vụ việc, và 9% đối với các sản phẩm sử dụng thép. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cần xác định, các biện pháp phòng vệ thương mại là không thể tránh khỏi trong thương mại quốc tế.

Khách mời, TS. Hoàng Ngọc Thuận, Trưởng Ban Quản lý đào tạo các Chương trình tiên tiến và Chất lượng cao, Phòng Quản lý Đào tạo, Trường Đại học Ngoại thương.
Khách mời, TS. Hoàng Ngọc Thuận, Trưởng Ban Quản lý đào tạo các Chương trình tiên tiến và Chất lượng cao, Trường Đại học Ngoại thương.

 

Năng lực pháp lý của doanh nghiệp khi tham gia vào các vụ kiện rất quan trọng. Không nhiều doanh nghiệp nước ta có bộ phận pháp chế riêng, nhất là cán bộ am hiểu về phòng vệ thương mại, đây là một thực tế. Bên cạnh đó nguồn lực về tài chính cũng là vấn đề. Để phát triển bền vững, doanh nghiệp cần phải có nguồn lực tài chính để ứng phó với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại, và các rủi ro pháp lý khi tham gia vào thị trường mới. Nguồn lực tài chính này dành cho thuê luật sư, công ty tư vấn nước ngoài. Ví dụ như vụ điều tra thép của Mê-hi-cô chúng ta không chỉ sử dụng luật sư trong nước mà cần thuê đội ngũ tư vấn từ Mê-hi-cô. Ngoài ra là hệ thống sổ sách phải rõ rang, minh bạch, nhất là hệ thống sổ sách kế toán theo chuẩn mực quốc tế.

Mê-hi-cô là thị trường xuất khẩu thép mạ mới nhưng rất tiềm năng của Việt Nam và là thị trường chủ lực mặt hàng này ở châu Mỹ. Theo số liệu sơ bộ từ Trung tâm Thương mại quốc tế, trong năm 2020, Mê-hi-cô nhập khẩu khoảng 220 triệu USD sắt thép các loại từ Việt Nam, tăng khoảng 70% so với năm 2019. Bởi vậy, xuất khẩu thép vào Mê-hi-cô rất thuận lợi, trong 10 tháng đầu năm 2021, thép Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này tăng gấp đôi về giá trị và sản lượng. 

Trong đó, các sản phẩm sắt thép không hợp kim cán phẳng, có mã HS 7210 chiếm gần 80%, được hưởng thuế suất ưu đãi 0% khi xuất khẩu sang Mê-hi-cô nhờ ưu đãi thuế quan theo CPTPP. Trong khi đó, Mê-hi-cô đang duy trì áp thuế chống bán phá giá với cùng sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan với mức thuế tương đối cao từ 22,22% đến 76,33%.

Trong bối cảnh thép bị điều tra phòng vệ thương mại gần như tại hầu hết các thị trường thì Mê-hi-cô được coi là thị trường xuất khẩu thép mạ rất tiềm năng của Việt Nam. Do đó, nếu bị Mê-hi-cô áp thuế chống bán phá giá, ngành thép mạ của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 

Tạp chí Công Thương