Bỏ đất lênh đênh

Hết xoay dọc rồi lại xoay ngang, chắn chỗ này chỗ kia cho khỏi hắt, nhưng vẫn “lực bất tòng tâm”, ngoài trời mưa từng cơn vẫn tuôn xối xả. Ngôi “nhà thuyền”, giờ đây đã biến thành “bể cá”, anh Tuấn mặ

Đất chật… mặt sông mênh mông.

Năm nay, thời tiết trái mùa, đã qua rằm tháng 8 rồi mà trời vẫn mưa rả rích suốt nửa tháng rồi không dứt. Đứng trên bãi sông nhìn xuống chỉ thấy một màu trắng xoá, mặt nước đỏ ngầu vốn có của sông Hồng dường như biến mất sau “làn nước mắt ông trời”. Ngồi thu lu trong góc quán nước, một người đàn ông vận độc một chiếc quần đùi, lúc nhảy bên này, khi chuyển bên khác, tránh những giọt gianh thỉnh thoảng chảy long tong xuống qua chiếc mái hiên cót ép được dựng lên tạm bợ, mắt dính chặt, không rời khỏi mặt sông. Hình như ngôi nhà của anh ta đang được neo dưới đó. Trong khuôn mặt đượm vẻ lo lắng, đầy nỗi niềm, anh Tuấn, tên người đàn ông, lẩm bẩm một mình như muốn trút đi gánh nặng trong lòng: “Cầu trời, nhà ơi, đừng trôi!”. Đưa chén nước dở chừng lên miệng, chợt nghe câu nói của anh làm tôi giật thột, thầm nghĩ về cuộc đời những con người lang bạt sông nước. Phải chăng, số phận đã run rủi họ đến mức này? Tò mò, tôi ngồi sát về phía anh hỏi:

- Nhà anh dưới đấy à, sao không neo cho chặt lại để đỡ phải lo?

- Chặt làm sao được hở anh, dây buộc bằng thừng chỉ mấy tháng là mục, mà tiền lại chẳng kiếm được mà mua mới, đành phó mặc cho trời vậy.

“Con thuyền” lắc lư mạnh theo từng cơn gió thét gào như muốn đẩy ra ngoài mình nó những sinh linh bé nhỏ đang nằm trên đó. Tiếng gà kêu, lợn hét hòa trong tiếng khóc của lũ trẻ trên khoang thuyền mỗi khí rú lên là mỗi “nhát dao” đâm thọc vào tâm can anh Tuấn. Nhìn dòng lệ lưng tròng trong ánh mắt anh, tôi hiểu rằng, anh đang ngẫm lại cuộc đời mình. Có lẽ đời anh lúc này cũng giống “ngôi nhà” của anh vậy, luôn run rẩy trước gió táp mưa vùi. Rút điếu thuốc là cuối cùng mời tôi, một người khách mới quen, giữa làn khói trắng mờ mờ phả ra, quyện vào làn mưa, mơ màng anh tâm sự: “Gia  đình tôi ngày trước ở “bang bãi” (phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội) cũng khá giả lắm, tuy không được xếp vào hàng nhất nhì, nhưng cũng thuộc loại có tiếng ở khu này…”

Nhờ buôn bán thuận lợi, từ một gia đình “cửu vạn” quanh chợ Long Biên, gia đình anh Tuấn, sau thời gian tích cóp đã mở được một kiốt bán hoa quả, rồi dần dần do làm ăn có chữ tín, lại có “duyên”, nên nhanh chóng trở thành “ông chủ” có cỡ trong làng “cây trái”. Nhưng cuộc đời “mấy ai học được chữ ngờ”, lúc gia đình khá giả cũng là lúc kinh tế có dấu hiệu lụi bại. Vợ anh, người vốn trước đây tần tảo, hiền lành là thế, khi có “của ăn của để” lại lao vào cờ bạc, đề đóm, còn anh suốt ngày “ruổi rong” với các cuộc ăn chơi truỵ lạc để “bù lại những ngày gian khó”. Và cứ thế, làm ít tiêu nhiều, khiến nợ nần chồng chất, tài sản trong nhà anh lần lượt “đội nón” ra đi. Một ngày cuối năm năm 2001, “chỗ chui ra chui vào” bị siết nợ, đã trở thành giọt nước cuối cùng tràn ly, đưa cả nhà anh bước vào kiếp sống không nhà. Sau mấy tháng trời thuê nhà ở, số tiền ít ỏi còn lại cũng cạn kiệt, phần vì tiền nhà, phần vì chẳng biết làm ăn gì. Chủ nhà, sau một thời gian gia đình anh không đóng tiền thuê nhà đã chuyển căn phòng của anh cho người khác thuê. “Chả nhẽ đất trời rộng thế này mà không có chỗ cho mấy người nhà ta dung thân sao?”, nghĩ như vậy, anh quyết định đưa gia đình rời khỏi nơi đó. Nhưng trời thì cao quá, còn đất thì rộng thật, song đâu dễ tìm ra một chỗ “cắm dùi”, đến cả ngoài bãi, trên đê cũng chẳng còn một chỗ nào để “nhảy dù”, bởi ở đây đất đắt lắm rồi, lên đến hàng lượng vàng/m2, nhà cửa mọc san sát. Không tìm được nơi trú ngụ, khiến cả gia đình phải lang thang khắp nơi, anh gần như tuyệt vọng. “Nhiều lúc muốn chết quách đi cho rồi, nhưng nghĩ đến lũ trẻ nên đành phải sống”, anh thường tâm sự với mọi người như vậy. Nào ngờ con tạo hay trêu ngươi, lúc anh chẳng còn ý chí nhất cũng chính là lúc anh tìm được “nhà ở” cho gia đình mình. Đó là trong một lần đi khuân vác hàng thuê ngoài chợ Long Biên, biết anh chẳng có nơi ở, cũng chẳng có tiền thuê nhà, ông chủ hàng nói đùa: “Sao không xuống sông mà ở, dưới đó rộng lắm?”. Một ý nghĩ chợt loé lên trong đầu anh, anh liền tức tốc lấy nốt số tiền vốn mấy trăm nghìn dành dụm của vợ chồng ra mua thùng phuy, gỗ tre “ra bờ sông khu vực phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm cắm thuyền” ở. Những tưởng rằng, mình anh có sáng kiến như thế, nhưng đến bờ sông, một hàng dài hàng chục ngôi nhà thuyền đã neo ở đó từ bao giờ. Căn nhà anh là căn nhà thứ 11 ở xóm “thuyền” này.

Nỗi niềm ở lại

Tương tự như hoàn cảnh gia đình nhà anh Tuấn, hầu hết những người ở trên sông cũng vì cờ bạc, hút sách, rượu chè... đến tan gia bại sản phải tìm về đây sinh sống như nhà anh Chung, anh Tuấn, chị Thu... Lúc đầu chỉ có một hai nhà, sau đông dần tạo thành một xóm, cái xóm mà người dân “bản xứ” gọi là xóm “liều”, mặc dầu nơi họ ở cũng có tên gọi “liều” như thế. Nhiều người đùa vui rằng: “Phải chăng họ không “liều” bằng xóm “thuyền”. Theo chân anh Chung, một trong những người đầu tiên khai phá “xóm thuyền” đi xem một lượt những “ngôi nhà” của xóm, đi trên những “căn nhà” bồng bềnh, điều làm tôi cảm thấy ngạc nhiên, đó là họ ở “dưới nước” như ở trên cạn. Không sống bằng nghề đánh bắt tôm cá, không chở khách, đón hàng trên sông, cuộc sống khác hẳn những xóm chài và xóm làng bình thường. Cuộc sống nửa sông nửa cạn đã thể hiện một phần trong những “căn nhà” họ ở. Bước vào một căn nhà, nếu như không phải qua cầu trên mặt sông, chắc không ai nghĩ mình đang ở trên thuyền. Những căn nhà được bài trí như bao căn nhà khác ở trên cạn với đầy đủ vật dụng sinh hoạt hàng ngày, có cả điện và nước sạch (mua của những nhà dân trên bờ), thậm chí nuôi đầy đủ các loại gia súc gia cầm như gà, lợn, chó... Tuy nhiên, không phải căn nhà nào cũng có đầy đủ như vậy, mà tuỳ vào điều kiện kinh tế của gia chủ. Anh Chung cho biết, muốn ngôi nhà rộng rãi, chắc chắn nền bằng mảnh cầu phao, mái tôn, có khi cần phải có 8-10 triệu, còn nhà nền phao làm bằng thùng phuy, mái tôn thì chỉ 3-5 triệu, thấp hơn nữa là làm nền thùng phuy mái lá, tre gỗ có khi chỉ khoảng trên dưới 1 triệu đồng. Vâng, tuỳ theo hoàn cảnh từng gia đình, từng điều kiện để có được ngôi nhà nhỏ, nhà to, nhưng suy cho cùng, họ là những cuộc đời tứ xứ cùng quẫn đổ dồn về khu vực này, mang theo một quá khứ bất “bất hảo” tạo nên “điều tiếng không hay” cho “bang bãi này”, một nơi vốn đã nằm trong danh sách đỏ của tệ nạn xã hội. Không biết rồi mai đây, họ có trụ vững được trước những cám dỗ đã từng mắc phải, (cờ bạc, rượu chè, hút sách...) hay lại đi vào vết xe đổ trên con đường cũ? Còn những người dù có trụ vững được cũng không biết cuộc sống sẽ như thế nào, khi sức lực của họ sẽ cạn kiệt theo thời gian mà mưu sinh chính của họ là nghề bán sức theo nghĩa đen, đó là khuân vác, làm thuê, làm mướn..., cật lực cũng chỉ đủ ăn, không hề có chút tích luỹ. Và nhất là lũ trẻ từ khi “chuyển nhà” về đây, đã hoàn toàn bị thất học, tương lai gì đang chờ chúng, chẳng ai có thể trả lời được, kể cả chúng, cả bố mẹ, người đã sinh ra chúng. Nhiều người nói rằng, âu cũng là nhân quả, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Phải chăng, đây là lý lẽ, là số phận cuộc đời chúng phải gánh chịu. Xin hãy cứu vớt linh hồn chúng!

  • Tags: