Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đối thoại trực tuyến về công tác an sinh xã hội

Từ 2h chiều nay, 19/12, tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền bắt đầu đối thoại trực tuyến với người dân về công tác an sinh xã hội.




Cuộc đối thoại tập trung vào các nhóm vấn đề chính: thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2011-2015; thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ; đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; trợ cấp, trợ giúp các đối tượng khó khăn, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.

Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

PV: Trong thời gian qua, Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng đất nước vẫn đảm bảo được sự ổn định để phát triển, điều đó một phần là do công tác an sinh xã hội đã được thực hiện rất có hiệu quả. Vậy xin Bộ trưởng cho biết chủ trương về công tác an sinh xã hội theo NQ 11 của Chính phủ đã được quán triệt, triển khai như thế nào để có được một kết quả như vậy?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Trong bối cảnh kinh tế hết sức khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến chính sách an sinh xã hội. Chính vì vậy, trong khi cắt giảm các loại chi tiêu khác thì trong lĩnh vực an sinh xã hội không những không cắt giảm mà còn tăng lên, đồng thời có những nghị quyết rất cụ thể. Tháng 5/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020. Bên cạnh đó, Chính phủ giao Bộ LĐTBXH xây dựng Chương trình quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 -2015 và tới đây, Chính phủ sẽ phê duyệt.

Bên cạnh những chủ trương, định hướng lớn, Chính phủ đã ban hành những chính sách cụ thể để giảm nghèo bền vững.

Vừa qua, Chính phủ đã thực hiện sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 30a về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo. Nghị quyết đã đi vào cuộc sống.

Tổng số vốn ngân sách trung ương đã bố trí để hỗ trợ thực hiện chương trình theo Nghị quyết 30a kể từ năm 2008 là 8.535 tỷ đồng, trong đó cho đầu tư là 6.493 tỷ đồng còn lại là vốn sự nghiệp, giúp các huyện nghèo chủ động giải quyết các khó khăn trên địa bàn. Bên cạnh vốn ngân sách, Chính phủ dành ưu tiên trong phân bổ vốn trái phiếu, vốn ODA cho các huyện nghèo. Với tổng số kinh phí 22.000 tỷ đồng trong 3 năm, bình quân mỗi huyện được bố trí 118 tỷ đồng một năm.

Chính phủ cũng đã giao các doanh nghiệp tham gia góp sức cùng với nhân dân các huyện khó khăn để giảm nghèo. Có 40 doanh nghiệp đăng ký tham gia.

Năm 2011, trong điều kiện rất khó khăn, các doanh nghiệp đã hỗ trợ các huyện nghèo 350 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng, phát triển cơ sở sản xuất.

Ngoài ra, các phong trào huy động cộng đồng, dân cư, dòng tộc tham gia hỗ trợ giảm nghèo được triển khai.

Chính vì vậy, mục tiêu giảm nghèo của giai đoạn này là giảm 4% một năm nhưng theo kết quả tại cuộc sơ kết, tỷ lệ giảm nghèo đã đạt 5% một năm.

Riêng năm 2011, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, Chính phủ vẫn bố trí kinh phí để giảm nghèo gấp đôi so với năm 2010.

Lê Trọng Hoàng - Huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái: Hiện nay đã có khá nhiều các chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo đang được thực hiện, vậy vì sao lại phải triển khai thêm một chương trình nữa là chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015? Chương trình này có những điểm gì mới và sau một năm triển khai thực hiện đã đạt kết quả như thế nào ?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tỷ lệ giảm nghèo tuy đạt được 5% nhưng vẫn chưa thực sự đảm bảo ổn định, bền vững. Đối với vùng sâu, xa, vùng dễ gặp thiên tai, chỉ cần gặp thiên tai bất thường, có thể tái nghèo. Chính vì vậy, Chính phủ thấy rằng, vấn đề giảm nghèo bền vững là mục tiêu quan trọng. Dù chúng ta đã làm được nhưng vẫn cần Nghị quyết về giảm nghèo bền vững và chúng tôi đã xây dựng chương trình giảm nghèo quốc gia để trình Chính phủ.

Đinh Văn Thành – Huyện Tủa Chùa - tỉnh Điện Biên: Liệu việc thắt chặt chi tiêu, cắt giảm đầu tư theo NQ 11 có ảnh hưởng đến các nguồn vốn đầu tư cho giảm nghèo hay không nhất là các nguồn vốn đầu tư theo nghị quyết 30a của Chính phủ?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chính phủ quy định rất rõ không cắt giảm nguồn vốn đầu tư cho giảm nghèo, nhất là các công trình đã và đang triển khai thì cần tiếp tục. Còn các công trình chưa triển khai thì tỉnh cần báo cáo Thủ tướng nhưng tinh thần vẫn là không cắt giảm.

Lương Thị Huệ - Huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh: Trong bối cảnh thắt chặt chi tiêu như hiện nay thì việc huy đông các nguồn lực xã hội giúp người nghèo là rất cần thiết. Vậy Bộ LĐTBXH đã có biện pháp gì để tăng cường huy động các nguồn lực cho công tác này?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Hiện nay, tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội trong lúc ngân sách còn khó khăn, Chính phủ ban hành nghị quyết tăng cường đầu tư hỗ trợ các đối tượng khó khăn, giảm nghèo. Như tôi đã nói, ngoài những chương trình cho 62 huyện nghèo, thì năm 2011, Chính phủ đã hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo khoảng 930 tỷ đồng, trợ cấp khó khăn đột xuất cho các đối tượng thu nhập thấp, riêng kinh phí cho các hộ nghèo khoảng 765 tỷ đồng, khắc phục hậu quả thiên tại lũ lụt, cấp khoảng 6.000 tấn gạo cho hơn 8.000 hộ ở những vùng khó khăn do thiên tai mà chủ yếu là vùng nghèo ở nông thôn.

Ngoài ra, Chính phủ cũng tiếp tục đầu tư cho các chương trình an sinh xã hội, như ưu tiên kinh phí trợ giúp người nghèo về y tế, giáo dục, cụ thể chi 5.756 tỷ đồng mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, chi khoảng 3.500 tỷ đồng thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh, chi 1.850 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, đã hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm.

Chương trình mục tiêu quốc gia của năm 2011 chưa được phê duyệt, nhưng Chính phủ cũng tiếp tục đầu tư 483 tỷ đồng hỗ trợ vốn thực hiện việc giảm nghèo cho các tỉnh. Như vậy, ngoài huy động vốn từ ngân sách, Chính phủ cũng thực hiện các chính sách cụ thể đối với hộ nghèo như tôi nói, đồng thời giành nguồn lực ưu tiên cho 62 huyện nghèo tăng gấp đôi so với năm 2010.

Hoàng Minh Hiển – huyện Lục Ngạn, Bắc Giang: Các chương trình giảm nghèo rất hợp với lòng dân, song công tác quản lý ở một số địa phương chưa tốt còn để thất thoát và chất lượng kém, xin ý kiến nhận xét của Bộ trưởng về vấn đề này?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Về vấn đề này, đến nay, trên cương vị Bộ trưởng Bộ LĐTBXH, tôi chưa nhận được phản ánh về việc thất thoát. Tuy nhiên, qua một số thông tin như vậy, tôi cho rằng cần kiểm tra, xem xét, xử lý các sai phạm nếu có.

Nguyễn Minh Thắng – Trạm Tấu, Yên Bái: Thưa Bộ trưởng, mức chuẩn nghèo đang áp dụng được tính toán dựa trên căn cứ nào và trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, Bộ LĐTBXH có tính đến việc điều chỉnh chuẩn nghèo hàng năm cho phù hợp với chỉ số lạm phát hay không?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chuẩn nghèo được xác định trên cơ sở chuẩn chi tiêu tối thiểu. Trên cơ sở đó NQ 09 năm 2009 của Chính phủ đã quy định rõ, chuẩn nghèo đối với bình quân 1 khẩu là 400.000 đồng/tháng ở nông thôn, 500.000 đồng/tháng ở thành thị. Với chuẩn ấy, về nguyên tắc phù hợp tại thời điểm ban hành quy định, nhưng khi trượt giá cần nâng chuẩn lên. Nhưng thực tế, việc nâng chuẩn nghèo cần có quá trình nghiên cứu đánh giá, khảo sát và phải phụ thuộc khả năng chung của ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo theo chuẩn nghèo đó. Do vậy, không thể ngay một lúc có thể thay đổi chuẩn nghèo. Nhưng, trong bối cảnh trượt giá, nếu quá khó khăn, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hỗ trợ nhất định để đảm bảo mức tối thiểu.

Phạm Nhật Anh – Yên Hưng, Quảng Ninh: Hiện nay ở một số địa phương, việc bình xét hộ nghèo chưa được dân chủ, công khai dẫn đến tình trạng nhiều người nghèo thật sự nhưng không được sự hỗ trợ của Nhà nước. Vấn đề này đã nhiều lần được đề cập nhưng vì sao vẫn chưa được giải quyết dứt điểm và Bộ LĐTBXH sẽ có giải pháp gì để giúp các địa phương thực hiện tốt vấn đề này?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Rất cám ơn sự quan tâm của độc giả. Quan điểm của Chính phủ về việc bình xét hộ nghèo là công bằng, mỗi đợt bình xét Chính phủ đều có chỉ đạo, nhắc nhở và yêu cầu có tiêu chí cụ thể. Tuy nhiên, như độc giả phản ánh, ở các địa phương, có thể còn có nơi nào đó làm chưa tốt. Chúng tôi rất mong nhận được những phản ánh cụ thể về những đơn vị đó, chúng tôi sẽ chỉ đạo kiểm tra, xem xét và có biện pháp xử lý.

Nguyễn Huy Trường - thành phố Việt Trì, Phú Thọ: Hiện nay có một thực trạng là người nghèo càng khó tiếp cận với các dịch vụ tư vấn về pháp luật nên dễ bị thiệt thòi trong các giao dịch dân sự. Theo Bộ trưởng cần làm gì để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề này bởi người nghèo khó tiếp cận các dịch vụ tư vấn luật pháp. Tôi thấy cần có sự hỗ trợ người dân như tổ chức tốt các câu lạc bộ, trung tâm hỗ trợ pháp lý ở địa phương.

Đặng Văn Thành – huyện Kiến Thụy - TP Hải Phòng và độc giả có địa chỉ luuhuutu@...: Lạm phát, giá cả tăng cao đã ảnh hưởng tới đời sống của đại bộ phận người lao động thu nhập thấp, các đối tượng chính sách trong xã hội. Bộ LĐTBXH đã có những hoạt động gì để giúp người nghèo và các gia đình chính sách vơi bớt khó khăn trong cuộc sống, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà Tết Nguyên đán đang đến gần? Và Bộ sẽ có những giải pháp nào để hạn chế tiêu cực trong công tác phân phát những khoản hỗ trợ đến tay nhân dân?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Trong tình hình chung, đối tượng thu nhập thấp bao giờ cũng gặp khó khăn hơn, đặc biệt là năm nay khó khăn đó rất lớn. Trước tình hình này, Chính phủ đã giao Bộ LĐTBXH nghiên cứu, xem xét đề xuất các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn này. Thực hiện Nghị quyết 11, Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính và một số bộ khác ban hành chính sách cụ thể như hỗ trợ tiền điện hàng tháng là 30 nghìn đồng kể từ tháng 3/2011 đối với các hộ nghèo theo chuẩn quốc gia, hỗ trợ 250 nghìn đồng cho những người có mức lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội dưới 2,5 triệu đồng/tháng, hỗ trợ 60 nghìn tấn gạo cứu đói cho 811 nghìn hộ với 2 triệu khẩu.

Bộ đã có công văn nhắc nhở, yêu cầu các địa phương rà soát, nắm tình hình các đối tượng khó khăn để báo cáo Chính phủ, từ đó kịp thời ban hành, chỉ đạo thực hiện các giải pháp cụ thể. Vừa rồi, Chính phủ đã quyết định hỗ trợ một phần đối với các tỉnh bị bão lũ.

Bùi Văn Đệ - huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai: Tôi có đọc được thông tin qua báo chí ước tính tới 40% các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã ngừng hoạt động dẫn đến số lao động thất nghiệp gia tăng. Xin Bộ trưởng cho biết tình hình cụ thể thế nào? Trước tình hình trên thì Bộ LĐTBXH đã làm gì để hỗ trợ người lao động bị mất việc hoặc gặp khó khăn về việc làm?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tôi xin thông tin thêm, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 11/2011, doanh nghiệp đã đăng ký 609.907, doanh nghiệp đã thu hồi chứng nhận đăng ký là 76.317, chiếm khoảng 12,6%, chứ không phải 40%. Tuy nhiên, trong số chưa phải thu hồi cũng có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, có thể tạm dừng sản xuất, ảnh hưởng nhất định tới đời sống người lao động hoặc ảnh hưởng tới việc làm.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Thứ nhất, làm sao để những người lao động này có việc làm ở nơi khác. Thứ hai, hỗ trợ họ nếu chưa thể tìm việc làm ở chỗ khác.

Bộ LĐTBXH đã chỉ đạo cụ thể như có văn bản đề nghị địa phương ưu tiên những người thất nghiệp vay vốn từ Quỹ việc làm quốc gia; chỉ đạo các trung tâm giới thiệu việc làm cung cấp thông tin về thị trường lao động để họ có thể tìm được việc làm mới; thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp; kiểm tra, hướng dẫn các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các quy định về chế độ chính sách đối với người lao động.

Lê Đức Thành – TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình: Tôi thấy trong khi nhiều lao động trong nước gặp khó khăn về việc làm hoặc thậm chí thất nghiệp thì tình trạng lao động phổ thông nước ngoài làm việc không phép tại Việt Nam vẫn có chiều hướng tăng. Vấn đề này đã được dư luận cảnh báo nhưng vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Xin Bộ trưởng cho biết thực trạng vấn đề này đến đâu và chủ trương giải quyết của Bộ LĐ- TB-XH?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Đây là là vấn đề được nhiều độc giả quan tâm. Tôi đề nghị Cục phó Cục Việc làm Lê Quang Trung giải thích rõ hơn.

Ông Lê Quang Trung, Cục phó Cục Việc làm: Xin cám ơn ý kiến của độc giả. Thời gian qua, vấn đề lao động nước ngoài được dư luận quan tâm, các phương tiện thông tin đại chúng đề cập. Theo báo cáo của các sở lao động- thương binh và xã hội, tính đến tháng 9/2011, ở Việt Nam có 78.440 người nước ngoài làm việc, trong đó 41.529 người được cấp giấy phép. Số không thuộc diện được cấp giấy phép (tức là vào Việt Nam làm việc dưới 3 tháng) là 5.581 người, số còn lại chưa được cấp giấy phép, đang làm thủ tục chiếm khoảng 30%.

Qua kiểm tra của các địa phương, của Bộ, lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn cao hầu hết làm việc cho các nhà thầu nước ngoài trúng thầu tại Việt Nam. Trong số này, phần lớn làm việc dưới 3 tháng, không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Ví dụ, Ninh Bình có 1.363 người, trong đó 1.005 người thuộc diện cấp giấy phép. Tại Cà Mau có 1.600 người, đến nay hầu hết đã được giấy phép và một số đã làm thủ tục cấp giấy phép.

Bộ đã có nhiều văn bản chỉ đạo các địa phương rà soát, kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật. Đồng thời, hoàn thiện các quy định của pháp luật. Năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 46 để quản lý chặt chẽ các nhóm lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, đồng thời chúng ta tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính để thu hút các lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.

Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy định về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trước hết, xây dựng Luật Việc làm, trong đó có nội dung quan trọng về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đồng thời, chúng tôi đề nghị sớm xây dựng Luật Xuất nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu quy định cụ thể vấn đề lao động từ khâu mời thầu, dự thầu, chấm thầu, thực hiện gói thầu các nhà thầu nước ngoài.

Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là cho lao động nước ngoài, cho các nhà thầu, cho chủ đầu tư, cho các doanh nghiệp, tổ chức, các đơn vị cơ sở…

Bên cạnh đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Một giải pháp quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là giữa ngành lao động, thương binh xã hội và ngành công an, ngành kế hoạch đầu tư và các ngành có liên quan.

Trần Duy Văn - Quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng: Tôi muốn chốt sổ bảo hiểm ở công ty cũ để đi tìm việc làm mới nhưng được trả lời là khó và chưa biết khi nào có thể chốt được vì công ty còn nợ tiền BH. Xin tư vấn cho tôi cách giải quyết tốt nhất và xin Bộ trưởng cho biết quan điểm chỉ đạo của Bộ LĐTBXH về tình trạng chây ỳ, nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp?

Bà Trần Thị Thúy Nga- Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội: Việc xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên sổ bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng đến thời điểm nào thì xác nhận đến thời điểm đó. Trường hợp doanh nghiệp còn nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, cơ quan bảo hiểm chưa có căn cứ để xác nhận thời gian còn nợ đó vào sổ bảo hiểm xã hội.

Trên thực tế, thời gian qua, một số doanh nghiệp trích tiền lương của người lao động nhưng chưa đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, nay người lao động cần chốt sổ bảo hiểm xã hội để đi tìm việc làm mới, Bảo hiểm Việt Nam cũng đã có văn bản gửi Bảo hiểm các địa phương để hướng dẫn theo hướng doanh nghiệp cần có văn bản đề nghị với cơ quan bảo hiểm xã hội đề nghị đóng trước bảo hiểm xã hội cho những người nằm trong diện cần chốt sổ trong thời gian đó và cam kết với cơ quan bảo hiểm xã hội là chuyển nốt số tiền nợ đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

Về sự chỉ đạo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về vấn đề này, thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có nhiều văn bản gửi UBND, Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố, gần đây ngày 26/10/2011, Bộ có công văn số 3624 gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện một số nội dung:

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền cho người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

Thứ 2, phối hợp với các cơ quan liên quan nắm bắt số lượng doanh nghiệp, số người lao động để yêu cầu người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.

Thứ 3, tổ chức các đoàn kiểm tra thanh tra liên ngành việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, trước hết tập trung thanh tra kiểm tra các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, xử lý kiên quyết theo đúng pháp luật các hành vi vi phạm về bảo hiểm xã hội.

Thứ 4, tăng cường vai trò của tổ chức công đoàn trong phát hiện và yêu cầu người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Đinh Duy Biện - Huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương: Tôi có nghe là trong dự thảo Luật lao động sửa đổi có đề xuất về tăng thời gian làm thêm, liệu điều này có tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp lợi dụng vắt kiệt sức của người lao động hay không?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, thời gian làm thêm mỗi năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt là 300 giờ. Vừa rồi, Bộ LĐTBXH là cơ quan soạn thảo dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) có đề xuất báo cáo Chính phủ, Chính phủ báo cáo Quốc hội tăng giờ làm thêm lên 360 giờ, tăng 60 giờ so với hiện tại.

Có 2 căn cứ để đề xuất như vậy. Yếu tố thứ nhất là năng suất lao động tại Việt Nam chưa được cao. Thứ hai, có một số doanh nghiệp mang tính thời vụ, ký hợp đồng theo thời hạn. Khi chuẩn bị xây dựng Luật này, chúng tôi cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, xin ý kiến các cơ quan quản lý, người lao động cũng như doanh nghiệp. Trong thực tế, một bộ phận người lao động có nhu cầu làm thêm để tăng thu nhập. Nhiều doanh nghiệp đề nghị trong những điều kiện cụ thể mang tính thời vụ có thể tăng giờ làm thêm lên 360 giờ.

Trên cơ sở quyền lợi người lao động là chính, tính đến quyền lợi của doanh nghiệp, cơ quan soạn thảo đề xuất như vậy.

Về vấn đề “vắt kiệt sức lao động”, dự thảo Luật đã quy định 2 vấn đề ràng buộc. Một là phải được sự đồng ý của người lao động. Thứ hai, tiền trả làm thêm cũng tăng 20% so với hiện hành. Như vậy, việc tăng giờ làm thêm không hẳn như một số ý kiến lo ngại là “vắt kiệt sức lao động”, mà là xuất phát từ nhu cầu thực tế. Và Quốc hội sẽ xem xét có thông qua đề xuất này hay không.

Trương Hoàng Trọng – Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh: Hiện nay quy định về mức lương tối thiểu không còn phù hợp do lạm phát giá cả tăng cao. Xin Bộ trưởng cho biết trong năm 2012 tới chế độ tiền lương có tiếp tục được điều chỉnh hay không?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Vấn đề lương tối thiểu là vấn đề nhạy cảm. Việc xây dựng lương tối thiểu dựa trên căn cứ khoa học về mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, khi xây dựng, so với quá trình trượt giá thì đến thời điểm này, rõ ràng, mức lương tối thiểu cần được xem xét. Chính vì vậy, Quốc hội đã giao cho Chính phủ xây dựng Luật Lương tối thiểu. Tới đây, trong quá trình xây dựng Luật Lương tối thiểu, những nội dung cụ thể này sẽ được giải quyết.

Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết - Phường Thới Bình, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ: Qua tìm hiểu việc thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở một số địa phương tôi thấy việc dạy nghề cho nông dân không sát thực tế và thiếu chất lượng. Bộ trưởng nhìn nhận như thế nào về vấn đề này và theo Bộ trưởng phải làm sao để thực hiện Đề án với nguồn kinh phí rất lớn đó không bị lãng phí và đạt được hiệu quả thiết thực?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tôi xin nói rõ thêm về ý kiến của độc giả. Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” được ban hành cuối năm 2009.

Việc thực hiện chương trình đến thời điểm này mới được hơn 1 năm, chúng ta mới ở bước tuyên truyền hướng dẫn, triển khai và xây dựng mô hình điểm. Những nội dung triển khai dạy nghề cụ thể chưa được nhiều.

Tới đây, chúng tôi sẽ tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm nhưng có lẽ là quá sớm để cho rằng chương trình này không sát thực tế, chưa hiệu quả. Tuy nhiên, chúng tôi cũng rất quan tâm tới ý kiến của độc giả Hoàng Thị Tuyết, phải xem xét để điều chỉnh những nội dung không phù hợp, nâng cao hiệu quả thực hiện Đề án.

Đỗ Văn Trung - huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình: Bộ LĐTBXH đã đề xuất và được Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Một trong những mục tiêu của đề án là mỗi năm đào tạo nghề cho 1 triệu nông dân, mục tiêu đó đến nay có thực hiện được không và những nông dân sau khi học nghề đã được hỗ trợ tạo việc làm như thế nào ?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Như tôi vừa nói, Nghị quyết 1956 mới được hơn một năm, ngành chỉ đạo chủ yếu mới tập trung vào mô hình điểm ở một số địa phương. Theo báo cáo, đến nay chỉ tiêu đào tạo 1 triệu lao động chưa đạt được theo chương trình. Theo tinh thần của đề án, những nơi được xây dựng mô hình điểm, số được đào tạo nghề cụ thể, khoảng 70% có việc làm phù hợp, đấy là những nơi điểm. Còn những nơi khác chúng tôi chưa có tổng kết. Mời Phó Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề Nghiêm Trọng Quý trao đổi thêm.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề Nghiêm Trọng Quý: Đề án đào tạo nghề nông thôn là đề án lớn, thời gian thực hiện dài. Nếu tính 12 năm, tính tới nguồn vốn Chính phủ dự kiến hỗ trợ đào tạo là 25.990 tỷ đồng.

Đề án có 2 mục tiêu về số lượng và hiệu quả.

Về số lượng, trung bình mỗi năm đào tạo 1 triệu lao động nông thôn, về hiệu quả, yêu cầu của đề án không chỉ là dạy, mà phải tạo việc làm. Đối với mô hình thí điểm thì phải đảm bảo 80% có việc làm. Cả giai đoạn 2011-2015: đảm bảo 70% có việc làm.

Giai đoạn 2016-2020: 80% có việc làm. Đây là đề án khó, vì đào tạo lao động nông thôn chủ yếu là đào tạo nghề, dưới 3 tháng. Mục tiêu trang bị cho bà con kiến thức kỹ năng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên từng diện tích. Như vậy tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Thứ 2, đào tạo nghề công nghiệp, dịch vụ và tiểu thu công nghiệp cho một số bà con đặc biệt là lao động trẻ nông thôn chuyển sang làm việc trong khu vực công nghiệp dịch vụ và trong 2 năm vừa qua, trong thiết kế của đề án đang tập trung làm thí điểm, chưa chạy theo số lượng. Có 4 loại chính là dạy nghề trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp và đánh bắt xa bờ.

Nói chung, các mô hình điểm ở các tỉnh, kết quả khả quan, hầu hết các mô hình điểm đều đạt trên 70%, có nơi đạt trên 90% có việc làm. Tuy nhiên, cùng với việc làm thí điểm, các địa phương cũng làm đại trà, tỷ lệ có việc làm ở khu vực đại trà chưa đạt yêu cầu.

Hiện nay, theo báo cáo của 63 tỉnh, thành thì 42 tỉnh, thành bảo đảm tỷ lệ có việc làm nói chung là trên 70%, 7 tỉnh thành có báo cáo về số liệu có việc làm thì chưa đạt được 70%, 14 tỉnh thành không có báo cáo. Công tác quản lý, theo dõi về hiệu quả đào tạo còn có vấn đề.

Thứ 2, về số liệu 2009-2010, kế hoạch đặt ra năm 2010 chỉ đào tạo 400.000 lao động, thực tế đạt 345.000, năm nay đặt kế hoạch 500.000, tính đến hết tháng 11/2011, mới đạt gần 400.000 lao động. Số lượng năm nay cũng có thể đạt được, nhưng chất lượng thì cũng còn vấn đề. Vừa rồi, Ban chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quyết định 1956 có họp và dự kiến đầu tháng 1/2012 tổ chức hội nghị sơ kết các mô hình thí điểm dạy nghề nông thôn, sơ kết tình hình thực hiện Quyết định 1956, trên cơ sở đó các địa phương đánh giá lại tình hình thực hiện, tồn tại yếu kém gì, nguyên nhân…, từ đó sẽ đề ra giải pháp khắc phục. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng chỉ đạo không chạy theo số lượng, đảm bảo mục tiêu có việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống bà con là ưu tiên trước hết.

Về đào tạo ngành nghề, muốn đảm bảo hiệu quả, đề án xác định rất rõ các bước muốn làm có hiệu quả, phải xác định nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất… và khi tổ chức lớp học xong người đó sẽ làm ở đâu, thu nhập thế nào, chính sách thế nào…

PV: Có 3 độc giả hỏi về cùng một vấn đề là xuất khẩu lao động, xin được chuyển đến Bộ trưởng.

Trịnh Hòa Bình - huyện Quỳnh Nhai, Sơn La: Tôi đã được Nhà nước hỗ trợ đi xuất khẩu lao động ở Libya nhưng phải về nước trước thời hạn, hiện tôi vẫn còn nợ ngân hàng, nay tôi muốn lại được đi xuất khẩu lao động thì có được hưởng những chính sách ưu đãi gì không?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Như chúng ta đã biết, Đảng, Nhà nước rất quan tâm tới tình hình lao động tại Libya. Chiến dịch đưa 10 nghìn lao động tại Libya về nước là thành công lớn, thể hiện trách nhiệm đó. Sau đó, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có báo cáo Chính phủ về các vấn đề cụ thể đối với các lao động này.

Như báo cáo vửa rồi, những lao động từ Libya về nước thuộc 62 huyện nghèo sẽ được hỗ trợ thêm 50% vốn đi xuất khẩu lao động cho đối tượng không phải là hộ nghèo từ Quỹ Quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước. Những người đã vay tiền được đề nghị ngân hàng gia hạn nợ, giãn nợ, khoanh nợ. Do đó, nếu huyện của bạn thuộc diện 62 huyện nghèo, ngoài chính sách chung sẽ được hưởng chính sách như vậy.

Nếu tới đây bạn có nguyện vọng đi xuất khẩu lao động, bạn nên liên hệ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, để họ có thể bố trí, sắp xếp cho bạn đi phù hợp với nghề nghiệp và với doanh nghiệp đối tác.

Trần Thiện Duy – Quận Hà Đông, Hà Nội: Thưa Bộ trưởng trước tình hình thị trường xuất khẩu lao động ở một số nước bị thu hẹp, xin Bộ trưởng cho biết chủ trương xuất khẩu lao động của Bộ trong năm 2012 để người dân biết và chủ động.

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao, nỗ lực tiếp cận các thị trường xuất khẩu lao động để khi công tác tạo việc làm trong nước khó khăn thì đẩy mạnh hoạt động này ở ngoài nước. Năm 2011, chúng ta dự kiến đưa khoảng 90 nghìn lao động ra làm việc ở nước ngoài, năm 2012 phấn đấu đạt khoảng 100 nghìn.

Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần củng cố các thị trường truyền thống như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Thứ hai, đẩy mạnh khai thác các thị trường mới, ví dụ vừa rồi, sau khi các nước Trung Đông ổn định, chúng ta lại tiếp tục triển khai đưa người sang làm việc tại các nước có nhu cầu.

Thứ ba, quan tâm nâng cao chất lượng lao động, nhất là lao động làm việc tại các nươc có thu nhập cao. Vừa rồi, tôi có dự Hội nghị ILO khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản khẳng định Nhật Bản rất cần lao động có chất lượng cao, nhưng phải thông thạo tiếng Nhật. Tôi có đến thăm một đơn vị người lao động Việt Nam, tất cả đều nói rất phấn khởi vì thu nhập tới 1.400 USD một tháng, nhà máy có chỗ ở. Tuy nhiên, điều buồn nhất là sau gần 1 năm làm việc, tiếng Nhật vẫn chưa thông thạo lắm nên rất khó khăn trong giao tiếp. Tới đây, nếu các chương trình hợp tác về lao động giữa Việt Nam và Nhật Bản được triển khai, như chương trình đưa hộ lý, y tá Việt Nam sang Nhật theo thỏa thuận của Thủ tướng hai nước, chúng tôi cho rằng việc dạy tiếng cùng với đào tạo nghề là rất cần thiết. Điều này cũng rất cần thiết để chúng ta tìm đến các thị trường mới.

Phạm Thanh Vân - xã Hoà Lợi, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre: Xin Bộ trưởng cho cháu 1 lời khuyên để không bị lừa đảo khi làm các thủ tục đi xuất khẩu lao động?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chúng tôi rất quan tâm tới vấn đề này. Có những đối tượng đã đã trục lợi thông qua việc lợi dụng nhu cầu chính đáng và sự thiếu hiểu biết, không nắm rõ thông tin của người lao động.

Mới đây, Hàn Quốc đã đồng ý tiếp nhận 15.000 lao động Việt Nam. Kỳ thi tiếng Hàn được tổ chức, nhưng có tới 67.000 người đăng ký. Do đó, một số cò mồi đã hoạt động trong lĩnh vực này. Chúng tôi đang phối hợp cùng với Bộ Công an xem xét, xử lý các cò mồi trong kỳ thi này.

Về nội dung cụ thể, tôi xin mời Cục phó Cục Quản lý lao động ngoài nước Lê Văn Thanh. 

Cục phó Cục Quản lý lao động ngoài nước Lê Văn Thanh: Lao động cần liên hệ ngay tới Cục Quản lý Lao động ngoài nước. Trang web của Cục là www.dolab.gov.vn. Tại đây, chúng tôi đã đăng tải rất nhiều thông tin về các thị trường xuất khẩu lao động, các chính sách, doanh nghiệp có đăng ký, được phép đưa lao động đi nước ngoài. Lao động có thể liên hệ trực tiếp với các doanh nghiệp này để có thể được lựa chọn đi làm việc phù hợp ở nước ngoài.

Thứ hai, Cục có đường dây nóng để người lao động có thể liên hệ trực tiếp: 04.38249517, số máy lẻ 511, 512.

Ngoài ra, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cũng có rất nhiều biện pháp tuyên truyền, thông qua báo chí, tờ rơi… Đồng thời, các thông tin về xuất khẩu lao động cũng thường xuyên được cung cấp tới các Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động địa phương (từ tỉnh, huyện tới xã), người lao động có thể liên hệ trực tiếp để có thông tin đầy đủ, tránh bị lừa đảo.

Thạch Nam Phương, Cà Mau: Tôi tên Thạch Nam Phương, đang công tác ở Cà Mau. Tôi xin hỏi, ngành nghề nào cũng góp phần xây dựng xã hội, nhưng tại sao ngành Giáo dục, cụ thể là nhà giáo lại có phụ cấp trong khi hầu hết các ngành khác thì không có, đặc biệt là đối với công chức nhà nước. Trong khi nhà giáo không phải làm việc 8 giờ mỗi ngày và 12 tháng mỗi năm. Nếu nói là nhà giáo không có khoảng thu nhập nào khác thì công chức nhà nước, nhất là công chức làm công tác quản lý nhà nước tại các Sở, Ban, Ngành thì cũng không có khoản thu nhập nào khác ngoài lương?

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Thứ nhất, vấn đề phụ cấp nghề đặc thù, không phải chỉ có ngành Giáo dục. Thực tế hiện nay, một số ngành cũng có phụ cấp như thanh tra, giáo dục và một số ngành đặc thù… Tuy nhiên, ý kiến của độc giả rất đáng quan tâm, vì giữa ngành giáo dục với công chức, các ngành khác, tại sao có ngành phụ cấp, có ngành không.

Vấn đề này chúng tôi sẽ nghiên cứu để có đề xuất chính sách trong thời gian tới như thế nào.

Tiếp tục cập nhật.