Để đảm bảo tính minh bạch, Việt Nam cũng đã chấp nhận và có nghĩa vụ thông báo kịp thời tất cả các luật, quy định và hướng dẫn sẽ hết hiệu lực. Việt Nam cũng chấp nhận nghĩa vụ thông báo kịp thời tất cả các luật, quy định và các văn bản pháp luật khác mà có ảnh hưởng tới vấn đề về hải quan, thương mại hàng hóa dịch vụ và sở hữu trí tuệ và kiểm soát ngoại hối. Không có luật, quy định, nghị định, nghị quyết, tòa án và các quyết định hành chính áp dụng chung nào sẽ có hiệu lực và được thi hành trước khi công bố, trừ trường hợp khẩn cấp và vì an ninh quốc gia.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện có hiệu quả các cam kết mà chúng ta chấp nhận trong văn kiện gia nhập WTO, Việt Nam còn phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách. Nói cách khác là, xây dựng một chiến lược pháp luật phục vụ giai đoạn “hậu” WTO. Một số nguyên tắc mới được hình thành trong giai đoạn hậu WTO như nguyên tắc đảm bảo việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật không được làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Nguyên tắc thẩm định tất cả các điều ước quốc tế được đề xuất gia nhập và ký kết; Nguyên tắc kiểm tra phù hợp với các điều ước quốc tế được đề xuất ký kết hoặc gia nhập với các điều ước quốc tế về cùng một lĩnh vực mà Việt Nam là thành viên; Nguyên tắc đánh giá sự tương thích giữa pháp luật quốc gia và các cam kết quốc tế; Nguyên tắc áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên.
Pháp luật Việt Nam tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của điều ước quốc tế, mà Việt Nam là thành viên hoặc dự định sẽ là thành viên, là cách tiếp cận mới trong quá trình hội nhập quốc tế. Có thể nói, nguyên tắc cần tính đến điều ước quốc tế khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được dần dần nhường chỗ cho nguyên tắc đánh giá sự tương thích của pháp luật quốc gia với chuẩn mực quốc tế. Đây là bước chuyển biến to lớn về cách tiếp cận của pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế, thể hiện sự tương đồng, không chia cắt về những quy tắc ứng xử chung giữa hai hệ thống pháp luật, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Việc đánh giá mức độ tương thích không bắt buộc trong tất cả các trường hợp đều phải tiến hành sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, mà hệ thống pháp luật quốc gia có thể vẫn giữ nguyên một số đặc thù, phù hợp với điều kiện quốc gia đó. Nhưng khi phải thực hiện các cam kết quốc tế có các quy định khác với văn bản quy phạm pháp luật quốc gia, thì vẫn được ưu tiên áp dụng.
Bước ngoặt có tính chất đột phá mở đầu cho sự tiếp tục phát triển của pháp luật nước ta là sự kiện ký kết BTA Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2000. Lần đầu tiên trong một điều ước quốc tế song phương, Việt Nam đã cam kết trong một thời gian nhất định, chủ động sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật liên quan đến kinh tế, thương mại cho phù hợp với các chuẩn mực của BTA Việt Nam-Hoa Kỳ. Ý nghĩa của cam kết này đã vượt ra khuôn khổ quan hệ thương mại giữa hai nước. Nó đã trở thành nguyên tắc ứng xử chung của Việt Nam trong việc xây dựng pháp luật quốc gia. Thực hiện cam kết của BTA Việt Nam-Hoa Kỳ, cũng chính là mở đầu cho việc thực hiện các yêu cầu tối thiểu của điều kiện gia nhập WTO.
Song song đó, việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO đã đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển pháp luật về điều ước quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Việc gia nhập WTO, sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam và pháp luật về điều ước quốc tế nói riêng đã tận dụng được các cơ hội, vượt qua thách thức để phát triển và tạo ra sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, nhằm thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế, chủ động hội nhập sâu rộng vào sân chơi pháp lý quốc tế.
Mặt thuận lợi của việc chuyển hóa các cam kết gia nhập WTO vào pháp luật Việt Nam là đem lại sự rõ ràng, minh bạch cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan tới việc thi hành các cam kết ấy. Đồng thời, điều này cũng chứng tỏ sự minh bạch trong việc thực thi các cam kết của Việt Nam cho các đối tác WTO. Hơn thế nữa, việc nội địa cũng tạo ra khả năng kiểm soát, giám sát của cơ quan lập pháp đối với việc thi hành các cam kết quốc tế, bảo đảm sự thống nhất giữa công tác xây dựng pháp luật trong nước với điều ước quốc tế-một yêu cầu đối với tất cả các nước thành viên WTO.
Là thành viên của WTO, không chỉ chúng ta phải tuân thủ các cam kết của mình, mà còn đòi hỏi cần phải có nhiều giải pháp lập pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền, phát huy vai trò của các doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh nước ta tham gia ngày càng sâu, rộng hơn vào tiến trình toàn cầu hóa. Song song đó, cần phải có những giải pháp lập pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp… Do đó, việc đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành và ban hành những văn bản mới tạo cơ sở pháp lý là vấn đề cần nên sớm thực hiện.
Việc Việt Nam hội nhập suôn sẻ vào nền kinh tế thế giới cần có sự tham gia của hàng nghìn luật sư thương mại có đủ trình độ trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh và quản lý nhà nước. Điều đó, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ WTO, sẽ tạo điều kiện đúng đắn cho việc thông qua các chiến lược kinh doanh đúng đắn.