Để khẩn trương triển khai thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tái khởi động Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, Bộ Công Thương với chức năng, nhiệm vụ được giao đã chủ động rà soát, triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ quan trọng.
Theo khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), có 19 vấn đề cơ sở hạ tầng liên quan cần được thực hiện. Trong đó, nhân lực là một trong những vấn đề cơ sở hạ tầng quan trọng, bảo đảm sự thành công của Dự án và cần phải được quan tâm đi trước một bước.
Theo đó, sáng 02/01/2025, tại trụ sở Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì Hội nghị với các trường đại học thuộc Bộ với chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình điện hạt nhân”.
Nguồn nhân lực về điện hạt nhân thiếu cả về lượng và chất
Báo cáo về hiện trạng, nhu cầu và giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ chương trình điện hạt nhân, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ Lý Quốc Hùng cho biết, hiện nay nguồn nhân lực khoa học và công nghệ về điện hạt nhân của nước ta đang thiếu cả về số lượng và chất lượng, nhất là rất thiếu các nhà khoa học, kỹ thuật đầu đàn.
Số nhân lực khoa học và công nghệ về điện hạt nhân hạn chế làm việc chủ yếu trong các cơ quan: (1) Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam; (2) Cục An toàn bức xạ và hạt nhân - Bộ Khoa học và Công nghệ; (3) Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; (4) Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; (5) Viện Vật lý - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam; (6) Trường Đại khọc Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội; (7) Trường Đại học Đà Lạt; (8) Tập đoàn Điện lực Việt Nam; (9) Trường Đại học Điện lực.
Trong khi đó, theo khuyến cáo của Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF), Tập đoàn ATOMSTROYEXPORT của Liên bang Nga và một số cơ quan về điện hạt nhân khác, nhân lực cần cho một nhà máy điện hạt nhân công suất 2.000 MW (2 lò phản ứng) khoảng 1.000 người có trình độ từ trung cấp đến đại học.
Trong điều kiện Việt Nam, để đảm bảo tiếp nhận chuyển giao công nghệ, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nhà máy an toàn, thì cần khoảng 1.200 người có trình độ đại học (giai đoạn chuẩn bị đầu tư cần khoảng 100 người; giai đoạn đấu thầu dự án cần khoảng 140 người; giai đoạn xây dựng nhà máy, vận hành thử cần khoảng 960 người). Các vị trí nhân lực trong một nhà máy điện hạt nhân được phân bổ như sau:
- Số nhân viên kiểm soát an toàn và bảo vệ bức xạ: 60 người.
- Số nhân viên quản lý dự án: khoảng 360 người.
- Số nhân viên quản lý và lãnh đạo nhà máy: 10 người.
- Số nhân viên vận hành khai thác - điều hành các lò: 140 người.
- Số nhân viên làm nhiệm vụ an toàn, bảo đảm chất lượng, kiểm soát viên: 18 người.
- Số nhân viên bảo trì và hỗ trợ kĩ thuật: 300 người.
- Số nhân viên làm nhiệm vụ hỗ trợ khác: 160 người.
- Số nhân viên cung cấp dịch vụ bên ngoài: 152 người.
Như vậy, trong trường hợp tái triển khai cả 2 dự án nhà máy điện hạt nhân (Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, công suất 2x2.000 MW), nhu cần nhân lực tương ứng sẽ là 2.400 người có trình độ đại học.
Ngoài ra, kinh nghiệm của một số nước có ngành hạt nhân phát triển cho thấy, ngoài số nhân lực phục vụ trực tiếp cho nhà máy điện hạt nhân nêu trên còn cần khoảng 350 người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành luật và pháp quy hạt nhân, các chuyên gia nghiên cứu và phát triển (chuyên gia R&D), các chuyên gia chu trình nhiên liệu,... phục vụ nghiên cứu, quản lí, vận hành, khai thác, đảm bảo an toàn cho nhà máy điện hạt nhân.
Mặt khác, số lượng nhân lực nêu trên chưa tính đến nhu cầu nhân lực cho quản lý nhà nước, nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu và đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục. Nếu tính trung bình mỗi 12 nhân lực lao động trong ngành điện hạt nhân có tương ứng 1 nghiên cứu viên; 20 sinh viên cần có 1 giảng viên, tổng nhu cầu nhân lực cho nhóm này sẽ khoảng 250 người.
Về chuyên ngành đào tạo, theo kinh nghiệm của một số trường đại học ở các nước có ngành khoa học và công nghệ hạt nhân phát triển thì nguồn nhân lực khoa học công nghệ hạt nhân được đào tạo theo các chuyên ngành, gồm: (1) Điện hạt nhân; (2) An toàn bức xạ; (3) Kỹ thuật hạt nhân; (4) Vật lý hạt nhân; (5) Quy hoạch; (6) Cơ khí; (7) Điện; (8) Môi trường; (9) Luật; (10) Kinh tế; và (11) Xây dựng và một số ngành khác.
Phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đến thành công dự án nhà máy điện hạt nhân
Việc phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mang tính chiến lược và có ý nghĩa quyết định đến thành công của dự án nhà máy điện hạt nhân, đáp ứng mục tiêu an toàn, hiệu quả và bền vững. Theo Vụ trưởng Lý Quốc Hùng, để phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ cho ngành điện hạt nhân cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu, cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về điện hạt nhân tại các trường đại học. Chương trình đào tạo cần được xây dựng bài bản theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành, trong đó có sự hỗ trợ thông qua hợp tác quốc tế với cơ sở giáo dục của các nước dự kiến sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ cho dự án điện hạt nhân trong thời gian tới.
Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu với các quốc gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực điện hạt nhân, như Liên bang Nga, Nhật Bản, Pháp, Mỹ,… thông qua việc tham gia vào các chương trình đào tạo quốc tế, chương trình trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh, hội thảo, hội nghị chuyên ngành, hợp tác nghiên cứu để trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong việc vận hành và quản lý an toàn lò phản ứng, nâng cao trình độ chuyên môn và mở rộng mối quan hệ quốc tế.
Thứ ba, rà soát nhân lực về điện hạt nhân hiện có tại EVN và các trường đại học, viện nghiên cứu thuộc Bộ; xây dựng kế hoạch để đào tạo mới, đào tại lại, đào tạo chuyên sâu nhằm hình thành đội ngũ chuyên gia đầu đàn trong lĩnh vực điện hạt nhân. Về lâu dài, việc tổ chức các khóa đào tạo nâng cao thường xuyên cho nhân lực làm việc trong ngành (về công nghệ mới, quy định an toàn hạt nhân, và quản lý rủi ro,…) là rất cần thiết, nhằm cập nhật những kiến thức mới nhất, từ đó nâng cao hiệu quả công việc và đảm bảo an toàn.
Thứ tư, đầu tư nâng cao năng lực cho các viện nghiên cứu thuộc Bộ nhằm hình thành lĩnh vực nghiên cứu và phát triển về điện hạt nhân và các công nghệ, kỹ thuật liên quan điện hạt nhân. Các viện nghiên cứu thuộc Bộ phải được chuẩn bị nguồn lực cả về con người và cơ sở vật chất để có thể tham gia hỗ trợ EVN tiếp thu, áp dụng công nghệ, kỹ thuật từ đối tác nước ngoài ngay từ những giai đoạn rà soát, điều chỉnh dự án; đàm phán về chuyển giao công nghệ, đào tạo - hỗ trợ kỹ thuật với đối tác nước ngoài.
Thứ năm, rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách theo thẩm quyền và kiến nghị Chính phủ xây dựng cơ chế, chính sách cho điện hạt nhân, trong đó có xem xét việc khuyến khích phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực điện hạt nhân.
Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cộng đồng về lợi ích và an toàn của năng lượng hạt nhân. Việc tổ chức các hội thảo, diễn đàn, và sự kiện truyền thông sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn về điện hạt nhân, từ đó thu hút sự quan tâm và khuyến khích thế hệ trẻ theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực điện hạt nhân.